05 tháng 12, 2004

Thư Ngỏ Cuối Năm (CT7)


Năm 2004 sắp sửa trôi qua để lại trong ta nhiều ấn tượng nổi cộm. Thế giới tin học Việt Nam chấn động qua sự cố Trí Tuệ Việt Nam, giải thi đại diện cho tri thức và sáng tạo của tuổi trẻ Việt Nam trong lãnh vực công nghệ thông tin, bị bôi đen thành Ăn cắp Trí tuệ bởi những người thắng giải nhất đã sao chép phần mềm của người khác để dự thi. Liên minh Hackers Việt Nam tấn công các website để đòi công lý. Hơn 60.000 phiếu bạn đọc và ý kiến khắp nơi tham gia "cuộc chiến". Từ Cầu Giấy, Hà Nội, bạn Trần Ngọc Giang đã phần nào nói lên quan điểm của nhiều bạn trẻ: "hoàn toàn ủng hộ đưa sự việc ra ánh sáng, mang lại niềm tin cho giới CNTT nói riêng và người Việt Nam nói chung. Nếu không, quả thực là một nỗi nhục lớn cho ngành CNTT Việt Nam và người Việt Nam.... Các anh, chị, bạn đã và đang đấu tranh cho sự nghiệp đòi công lý hãy chiến đấu đến cùng". Nhìn xa hơn, bạn Vũ Hoài Anh góp ý: "Là một sinh viên Việt Nam, tôi cảm thấy có cái gì đó đang đe doạ xã hội trong thập niên gần đây, nhiều tiêu cực không chỉ xuất hiện trong giáo dục làm cho chúng ta lo lắng về các thế hệ trẻ trong tương lai nay lại xuất hiện có dấu hiệu trong cuộc thi tầm cỡ quốc gia như TTVN....". Đón đầu đi tắt theo khuynh hướng thời đại đã bị thay thế bằng nửa đêm leo cổng đục tường. Như thế đấy, Trí tuệ Việt Nam trở thành cơn sốt cuối mùa.

Trước đó, mùa hè 2004 đã tỏa cơn nóng rát da, bỏng thịt xuống lãnh đạo đảng sau khi đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gởi thư vạch trần những âm mưu tiêu diệt nhau giữa những đồng chí từng ở trong vai trò lãnh đạo đảng. Những bức thư mở màn cho vụ án chính trị T4 siêu nghiêm trọng trong lịch sử đảng mà thủ phạm đứng đầu là Lê Đức Anh, người từng giữ chức cực lớn: đại tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên bộ chính trị, chủ tịch nước. Mặc dù đã có rất nhiều nhà cách mạng lão thành gởi thư đến bộ chính trị yêu cầu làm sáng tỏ mọi chuyện, cung đình Hà Nội vẫn im lìm theo đúng bản chất của nền chính trị câm lặng và bí mật.

Tháng 11, đảng và nhà nước trải thảm đỏ bắt tay quốc vương và hoàng hậu Na Uy. Cùng lúc, Hà Nội chào đón nhân dân Na Uy qua màn hình TV2 bằng hình ảnh người thiếu nữ Tâm Anh, đảng viên đảng Việt Tân, bịt mặt, che mắt, nhưng trung thực nói lên khát vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam. Các bạn trẻ Hà Nội rủ nhau vào truy cập trang nhà Việt Tân để đồng cảm với người thiếu nữ nhỏ bé nhưng can đảm đối đầu với hệ thống công an, dù biết rằng sau vụ phóng viên đài truyền hình ABC của Australia phỏng vấn đảng viên Việt Tân trước đó vào tháng 7, mật vụ đã canh chừng cẩn mật nữ ký giả Anne Fredrikstad để phòng ngừa mọi tiếp cận không vui lòng đảng. Phần phỏng sự ngắn nhưng bật ra được hiện thực chính trị nước ta: một bên là đảng và nhà nước bày tỏ lòng mong muốn gia tăng giao dịch quốc tế nhưng luôn luôn bám chặt độc quyền toàn trị; một bên là những người đấu tranh dân chủ kêu gọi quốc tế ủng hộ những nỗ lực xây dựng tự do và nhân quyền tại Việt Nam.

Tháng 12 với Phương Nam - Đỗ Văn Hải dứt khoát chọn lựa con đường đấu tranh dân chủ công khai. Sau những tâm tư trải dài trên nhiều trang giấy với Việt Nam đất nước tôi, Việt Nam và sự đổi mới, Suy nghĩ về nhận thức lại, Viết về chủ tịch Hồ Chí Minh, Viết tiếp về nhận thức lại mà anh đã duyệt xét lại những vấn đề quan trọng của đất nước như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên nhân của hai cuộc chiến tranh Đông Dương, sự hình thành và tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới hiện nay và sự tụt hậu của Việt Nam so với các nước trong khu vực và thế giới...; ngày 10 tháng 12 anh đã chính thức gởi thư đến Quốc hội, Trung ương đảng với những nhận định dứt khoát: "Hễ chừng nào còn chế độ độc đảng trên đất nước ta thì chừng đó sự bất công, đói nghèo và tụt hậu càng trở nên sâu sắc và trầm trọng - Đó là điều khẳng định". Từ đó anh thẳng thắn đề nghị: "Vượt lên trên khó khăn hiện nay của đất nước, tôi đề nghị Quốc hội, Chính phủ và Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam hãy nghiên cứu, xem xét ý kiến đề nghị của tôi về một cuộc Trưng cầu dân ý ở Việt Nam. Trong đó, câu hỏi duy nhất cần nhân dân Việt Nam trả lời là: Việt Nam nên hay không nên theo chế đa đảng? Nếu ai đồng ý thì ghi Có. Ai không đồng ý thì ghi Không.". Anh kết thúc lá thư tâm huyết của mình bằng câu nói của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh từ hơn 60 năm về trước: Tự do không thể van xin mà được. Tự do phải giành lấy mới có.

Một năm lại sắp trôi qua. Cần bao nhiêu năm tháng trôi qua nữa để dân tộc tìm được chí hướng đi lên. Không thể chờ đợi hoài và vì không thể đợi chờ nên đã nhiều người lên tiếng nói. Canh Tân xin cùng bạn đọc giả từ 2004 với niềm hy vọng Trí tuệ Việt Nam sẽ thực sự hồi sinh, công lý sớm được phục hồi. Sửa soạn chào đón 2005 với lời chúc bình an đến Tâm Anh, Phương Nam và nhiều con người dũng cảm khác đang vươn mình đứng thẳng trước bạo lực và bất công, đang biến nghĩ suy về chí hướng của mình thành hành động, cho quê hương mình, nơi tổ tiên đã đổ bao xương máu để gìn giữ và vun bồi.

Nhóm Chủ Trương Canh Tân

Trích Dẫn hay Minh Họa? (CT7)


Lưu Tấn Đông

Xưa, dưới thời quân chủ phong kiến, những văn kiện thường bắt đầu hay kết thúc bằng các điển cố từ nhiều thế kỷ trước. Nhan nhản những Nghiêu, Thuấn, Trụ, Kiệt…. Không thiếu những “Ngũ kinh Tứ truyện”, “Triệu thả phạt Yên”, “Tê thủ Mã phục”… mà chẳng rõ bao người đã biết?


Nay, trong thời quá độ lên tư bản chủ nghĩa có định hướng xóa đói giảm nghèo của thế kỷ 21, các văn kiện, tham luận, xã luận… chúng ta thường thấy cũng vẫn bắt đầu hay kết thúc bằng những điển cố có khi từ hơn 100 năm trước. Vẫn nhan nhản những Mác, Lê, Mao, Đặng…. Vẫn không thiếu những Tư Bản Luận, những Toàn Tập quyển X trang Y… mà nào hay mấy kẻ quan hoài?

Lại thường thấy một phương cách “sáng tạo thời đại” khá thông dụng: Trích dẫn nghị quyết. Hãy thử lướt qua bài viết của một vị TS, Giảng viên Đại học Đông Đô, đã đăng trên TCCS gần đây.

Dòng đầu tiên: “Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: …”.

Dòng thứ nhì: “Tư tưởng đó đã được thể chế hóa trong Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 như sau: …”.

Dòng thứ ba: “Việc nhấn mạnh nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Đáng tiếc, không phải chỉ từ chỗ đảng ta tự “khẳng định”, được người viết dẫn tới chỗ đảng ta tùy nghi “thể chế hóa” thành Hiến Pháp Quốc Gia. Bởi vì chóng chầy, dù có muốn hay không, nó cũng sẽ được thay đổi.

Đáng tiếc hơn là lối trích dẫn để ca tụng này được coi là mẫu mực tiêu biểu cho những áng luận văn thời đại thường thấy. Nhan nhản những “nghị quyết khẳng định”, những “chỉ thị quy định”, những “sắc lệnh chỉ định”…

Thường thấy nhưng không thường đọc. Bởi vì, trích dẫn, ở đây không còn giữ chức năng nhằm làm sáng tỏ thêm luận ý mình đang trình bày. Trích dẫn, ở đây, đã trở thành phương cách làm sáng tỏ thêm tâm thức tùng phục của mình trước cái ý của người (hay nhóm người) được trích dẫn. Nó là minh họa. Nó không chỉ tô hồng chuốt lục cho điều được trích dẫn. Nó vẽ ra và tô đậm chính mình, trong tư thế cong lưng, cúi đầu, mỉm cười, chớp mắt. Nó là a dua. Nó làm đánh mất chính mình, một người “có chữ”. Nó là a tòng. Nó giúp chính mình toại nguyện là chui lẩn được vào đám đông biểu kiến. Nó là nguyên nhân đầu tiên và sau cùng làm cho những bài tham luận, xã luận trên dàn báo chí nước ta, từ bao giờ, đã biến thành những bản sao chép hay phóng ảnh của nhau: Một bài như mọi bài!

Thường thấy mà không thường đọc. Vì ngoài cái cung cách trích dẫn vừa kể, còn bởi giá trị phần nội dung của điều được trích dẫn nữa. Thời đại có cái lý của nó: Đã qua rồi, từ lâu, cái thời người Trung Hoa tưởng rằng nước mình nằm giữa một trái đất… phẳng, không khéo, đi quá chân trời là …té xuống hư vô. Đám đông cũng có cái lý của nó: Cái bao ny-lông lành lặn bươi từ đống rác, dù có thể đem về xài lại, thì cho dù có cố gắng mô tả độ trong mức sạch đến mấy, cũng không thể che dấu được xuất xứ của nó từ đống rác. Huống gì dùng nó để khẳng định là rác… sạch?

Điều đáng mừng là đảng ta đang trên đà khẳng định mặt đất phẳng hiện được vo dần theo định hướng hình cầu. Rồi ra, chẳng bao lâu, đám đông kia cũng sẽ có cách xử lý rác thải một cách khoa học và an toàn. Chỉ còn lo là cái thói quen minh họa a tòng trở thành tập quán di hại vừa nói hẳn cần nhiều thời gian hơn để gột tẩy trong tiến trình tìm lại chính mình ở mỗi người, trong hàng ngũ những người thuộc giới “cầm bút” đang được coi là “có tay mà không có mình”.

Các nhà văn lớn, đã lớn không nhờ vào việc thông ngôn hay lặp ý của người khác. Các bậc vĩ nhân không hề chờ đợi lời mình nói sẽ trở thành khuôn vàng thước ngọc cho bất kỳ ai. Họ chỉ đơn giản trình bày ý riêng của họ. Tư duy là ý nghĩ của mỗi người. Đảng ta không thể nào cáng đáng nổi chức năng của một xí nghiệp quốc doanh sản xuất tư duy đại trà. Ngược lại, phải chăng đã đến lúc để chúng ta cùng cất lời từ biệt các Trường Viết Văn, các Trại Sáng Tác… để nhìn lại chính mình? Rồi, phải chăng đã đến lúc để riêng từng người trong giới cầm bút ở nước ta định tâm nhìn lại độc giả cả nước: Vì sao mà họ thường thấy nhưng không thường đọc chúng ta?

Trong lúc báo Nhân Dân được dùng vào những việc không cần đọc, thì lại có hiện tượng nhân dân chuyền tay hay rỉ tai nhau về những bài viết không hề thấy đăng trên báo Nhân Dân. Khoan nói về những “Quan Điểm và Cuộc Sống”, “Khát Vọng Ngàn Đời”, “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ”…. Hãy mừng là những tờ báo càng có khoảng cách với đảng ta lại càng đắt độc giả: Thanh Niên, Tuổi Trẻ v.v…. Hãy mừng là đã có những diễn đàn “Đánh Thức Con Rồng Ngủ Quên”, “Trái Tim Việt Nam”…. Họ không viết vì tấm danh thiếp phục vụ cho cơ quan ngôn luận của đảng. Họ viết để phục vụ cho độc giả của họ. Quan trọng hơn cả, họ viết theo phần nào lương tâm và nhiệt huyết của họ đang ngày đêm mong chờ những thay đổi tốt đẹp hơn cho đất nước, cho dân tộc. Càng đáng mừng hơn là cái “phần nào” đó đang mỗi lúc lớn dần.

Danh thiếp nào rồi cũng phai. Khẩu hiệu nào rồi cũng nhạt. Chỉ có sự nghiệp canh tân để đất nước và dân tộc Việt Nam cất cánh mới khả dĩ trường tồn. Nên chăng, hãy dũng cảm cùng nhau thẳng người đứng dậy, vung cánh tay Trí Tuệ giả từ vĩnh viễn một nền luận văn minh họa ươn hèn.

Thế Nào Là Một Nhà Lãnh Đạo Mạnh (CT7)


Lê Thanh


Tiếp theo những biến chuyển lớn lao vào cuối thế kỷ 20 với sự sụp đổ của thế giới cộng sản, sự chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh dai dẳng, sự bùng nổ của nền kỹ nghệ và văn minh tin học, sự hình thành những trật tự chính trị và kinh tế mới trong từng vùng và trên toàn cầu, nhân loại đã bắt đầu có những cái nhìn và đánh giá khác về những nhân vật lãnh đạo trên thế giới. Ngày hôm nay, tiêu chuẩn về một nhà lãnh đạo "mạnh" đã thay đổi rất nhiều so với nửa thế kỷ trước.


Nếu 50 năm trước một lãnh tụ mạnh được xem là người sẵn sàng sử dụng vũ khí, quân đội và các phương tiện bạo lực để đạt được điều mình mong muốn hoặc tiêu diệt điều mình không muốn, thì ngày hôm nay, nhân loại đã phân ra hai phạm vi hành xử tách bạch để đánh giá một nhà lãnh đạo: đó là đối ngoại và đối nội. Trong lãnh vực đối ngoại, các lãnh tụ mạnh là những người dám cưỡng lại các áp lực quốc tế khi quyền lợi quốc gia bị đe dọa và sẽ chống trả bằng biện pháp quân sự khi cần thiết. Ngược lại, trong việc đối nội, khi các lãnh tụ sẵn sàng sử dụng các phương tiện bạo lực hay thủ đoạn chính trị để đàn áp mọi thành phần đối lập hay quần chúng thì đều bị xem là chỉ dấu của yếu hèn chứ không phải là những người chỉ huy mạnh dạn hay can đảm. Thật vậy, thế giới ngày nay chỉ thấy sự khiếp nhược của cựu thủ tướng Mahathir của Mã Lai khi ông cho cảnh sát hành hạ và vu tội loạn dâm cho đối thủ chính trị; sự khiếp nhược của ban quân quản Miến Điện khi họ cho công an đàn áp và thực hiện những trò hạ cấp để cô lập lãnh tụ đối lập là bà Aung San Suu Kyi; sự khiếp nhược của cựu thủ tướng Lý Bằng ẩn núp đằng sau chiến xa và súng ống khi ra lệnh cho quân đội tàn sát hàng ngàn sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, v.v….

Một thí dụ ngược lại xảy ra vào tháng 6 năm 2004 khi tổng thống Eduard Shavanaze của nước Cộng Hòa Georgia, với quân lính và công an hoàn toàn nằm trong tay, vẫn quyết định từ chức khi dân chúng biểu tình phản đối kết quả bầu cử tái nhiệm ông. Từng là bộ trưởng ngoại giao của Liên Bang Sô Viết dưới thời tổng bí thư Gorbachev, ông Shavanaze biết rõ và dư thừa khả năng sử dụng bạo lực, nhưng thay vào đó, ông để lại một câu nói được cả thế giới kính phục: "Dù một giọt máu của người dân phải đổ ra chỉ vì cái ghế của tôi thì cũng là một giọt máu bị lãng phí".

Một lãnh tụ mạnh cũng phải là một lãnh tụ dám phục vụ nguyện vọng của nhân dân trong những trường hợp bị áp lực từ bên ngoài. Ông Đổng Kiến Hoa của Hồng Kông bị xem là loại thủ lãnh thừa thãi vì biết rất rõ ý dân nhưng không dám cãi lại những người bổ nhiệm ông từ Bắc Kinh. Ngược lại bà tổng thống Aroyo nhỏ bé của Philippines vẫn cương quyết rút đoàn quân 51 người của nước này ra khỏi Iraq bất kể những áp lực to lớn từ phía Hoa Kỳ và các nước trong Liên Quân. Lý do bà nhất định giữ quyết định này chỉ vì dân chúng tại Philippines muốn như vậy.

Một lãnh tụ mạnh cũng phải dám tiến hành các thay đổi cơ bản trong xã hội, sẵn sàng chấp nhận những giải pháp khó khăn nhưng đem lại lợi ích lâu dài cho dân tộc chứ không tuyên truyền và mị dân bằng những chính sách vá víu, nửa vời, qua loa để bám víu quyền lực. Như trường hợp của thủ tướng Megawati tại Indonesia. Cách đây vài năm bà được dân chúng ủng hộ hết lòng vì tin tưởng bà cũng theo bước thân phụ của bà và sẽ dám tạo nhiều thay đổi rộng lớn và mạnh bạo cho đất nước. Sau hai năm chờ đợi, dân chúng Indonesia đã kết luận bà không phải là một lãnh tụ mạnh mà chỉ là một chính khách sẵn sàng thỏa hiệp để giữ ghế cầm quyền.

Nói tóm lại, các lãnh tụ mạnh được nể phục trong thế giới ngày nay mang hai cách hành xử khá đối ngược. Đó là khi đối ngoại thì dám đương đầu với các áp lực quốc tế, nếu cần thì bằng quân sự; nhưng đối với quốc dân đồng bào, họ lại phải có lòng can đảm không núp sau các phương tiện bạo lực mà còn dựa vào nguyện vọng của đa số người dân để mạnh dạn tạo những thay đổi cơ bản cho đất nước. Người ta thấy hình ảnh những lãnh tụ này không những ở những nước thịnh vượng, giàu có mà cả ở những nước nghèo như Ấn Độ, Philippines, v.v...

Tại đất nước ta, tiếc thay, chúng ta chỉ thấy những cách hành xử ngược lại. Sức mạnh lãnh tụ không đến từ bản lãnh, khả năng và lòng yêu nước của cá nhân những người cầm quyền, không đến từ sự chọn lựa dân chủ và tín nhiệm của nhân dân, mà lại được bao che, bảo vệ bằng điều bốn hiến pháp, bằng nhà tù và súng ống, bằng sự tự khẳng định vai trò độc tôn tuyệt đối của đảng trong "sứ mệnh" lèo lái con thuyền quốc gia bất chấp kiến năng tụt hậu, kém cỏi. Trong lãnh vực đối ngoại, không biết các áp suất từ Bắc Kinh là bao nhiêu, nhưng đủ ba đời tổng bí thư của đảng đã sẵn sàng dâng nhượng cho Trung Quốc liên tiếp hàng trăm cây số vuông lãnh thổ Việt Nam, rồi hàng chục ngàn cây số vuông lãnh hải Việt Nam, rồi quyền lợi đánh cá của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ. Trong lãnh vực đối nội, các lãnh đạo đảng lại tỏ ra cực kỳ cương quyết, sử dụng đủ loại biện pháp bạo lực và thẳng tay trừng trị mọi thành phần quần chúng có ý kiến khác đảng. Lãnh tụ của nước ta bao năm nay thực chất chỉ là các lãnh chúa của một nền phong kiến nối dài.

Hơn bao giờ hết, đất nước Việt Nam ta cần những người lãnh đạo "MẠNH", đúng nghĩa !

Tự Do Trong Khuôn Khổ (CT7)


Vũ Quang

Thuở bé, nhà tôi có nuôi một con chim trong lồng. Tôi thường thích thú đứng ngắm nhìn chú chim nhảy qua nhảy lại trong cái lồng chật hẹp. Chim chẳng bao giờ bay. Và tôi thì không một chút thắc mắc nào cả. Lớn hơn một tí tôi được bố dắt đi chơi sở thú và thích đến xem chuồng chim bằng khung sắt to lớn hơn cái lồng chim nhỏ bé ở nhà. Nhìn những con chim trong chuồng được vươn cánh bay... vài thước thật lý thú hơn những bước tung tăng của con chim bé nhỏ trong lồng ở nhà. Và cũng không một chút gì thắc mắc trong tôi. Hè cuối bậc tiểu học, tôi theo mẹ về quê tắm giòng sông ngoại. Những buổi trưa hè êm ả, tôi thả hồn rong chơi theo những đám mây bồng bềnh và ngắm nhìn những bầy chim thư thả bay về cuối trời. Trong đầu óc non nớt tôi tự hỏi con chim nào vui sướng nhất nhỉ. Con chim trong lồng tre ở nhà được chăm sóc chu đáo? Con chim trong chuồng sắt rộng lớn ở sở thú được nuôi nấng đầy đủ, có bạn bè cùng tung tăng, được ngắm nhìn đám người lố nhố bên kia song sắt? Hay những con chim vô tư bay lượn chẳng cần ai chăm sóc? Tôi hỏi mẹ, mẹ ậm ừ bảo làm sao biết chim nghĩ gì. Năm tháng trôi qua và tôi đánh mất đâu đó cái suy tư của loài chim lúc nào không biết.

Thế giới thơ dại của tôi là xóm nhỏ với lũ trẻ cùng lứa nô đùa với ấu thơ, là viên bi, hòn sỏi, con diều biếc, là trường tiểu học gần nhà có cây đa già huyền bí, là thầy cô dịu hiền, là cha mẹ thân yêu. Biên giới của cái thế giới cỏn con đó là con đường lớn cách nhà chẳng đứa nào dám băng qua một mình. Ngày vào phổ thông cấp 2, tôi có được một chiếc xe đạp cọc cạch để cùng đám bạn mới lớn mở rộng thêm thế giới của mình qua khắp hang cùng ngõ hẹp của thành phố. Và cũng dừng ở đó. Thành phố là ốc đảo cho đến khi tôi bước chân vào ngưỡng cửa đại học. Những con đường quen thuộc ngày nào bỗng dưng trở nên chật hẹp, ngắn ngũi so với bước chân đầy vọng động của tuổi hai mươi. Tôi tiện tặn dành dụm tiền để làm những chuyến du hành đó đây trên các nẽo đường của đất nước thân yêu. Bước chân dài của tôi rồi lại phải dừng bước ở ven bờ cát trắng. Tôi phóng tầm nhìn của mình ra thế giới bên ngoài qua màn ảnh ti vi, qua trang báo điện tử thế giới và ước ao được một lần đứng giữa trời Âu, đất Mỹ.

Sống trong những niềm ao ước, hy vọng tôi lại hay chợt nghĩ đến những con chim thời thơ ấu. Bây giờ tôi biết chắc rằng những con chim bay lượn tự do là những con chim vui sướng nhất. Vì đó là bản năng sống tự nhiên của loài có cánh. Tôi biết chắc mẹ tôi ngày xưa cũng đã có câu trả lời khi mẹ ậm ừ với tôi với ánh mắt buồn buồn. Nhiều đêm trăn trở theo ngọn đèn đường mờ hiu hắt bên kia đường tôi suy tư đến tự do của con người. Tôi nghĩ đến sự tranh cãi về tự do của người Việt Nam chúng ta. Việt Kiều bảo Việt Nam thiếu tự do. Việt Cộng bảo tự do thiếu gì. Việt Kiều, Việt Cộng, ai là Việt Nam? Còn lại chỉ là tự-do-thiếu-thừa đã trở thành mối tranh cải sống chết giữa yêu nước và phản động.

Nhân dân Việt Nam có quyền tự do đến chùa, đến nhà thờ. Chùa, nhà thờ của ai thì là chuyện khác. Có quyền tự do cầu Phật, xin Chúa nhưng lại không được quyền tự do có tổ chức tôn giáo độc lập với chính quyền. Chỉ có trên đất nước anh hùng ta mới có sự khác biệt giữa tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo, giữa sư, cha thực sự và cha, sư quốc doanh. Dân Việt Nam ta có quyền tự do đi bầu: bầu cho bất cứ ai trong danh sách đã được đảng vinh quang họp bàn, định trước và được Mặt trận Tổ quốc nhắm mắt thông qua. Chỉ có trên đất nước anh hùng ta mới có 99% dân chúng đi bầu bằng sự chăm lo, đôn đốc của từng tổ trưởng dân phố và cái loa nhiệt tình đầu xóm. Báo chí truyền thông Việt Nam ta phong phú không kém một nước văn minh nào. Có đầy ra đó, báo bán, báo biếu, báo nhân dân gói cá lên mùi. Tự do nói đủ thứ điều, tố đủ thứ chuyện, duy chỉ không được tự do đụng đến những vấn đề nhạy cảm và những con người nhiều nhạy cảm.

Đại loại đất nước chúng ta là như thế đấy. Có đầy đủ tự do... trong khuôn khổ của lồng chim. Trong cái lồng sắt Việt Nam đó, có người cảm được biên giới chật hẹp, gò bó của nó, có người thì thấy nó rất rộng rãi vì chẳng nhìn thấy những song sắt vây quanh. Trong cái lồng chật-rộng-theo-từng-nhãn-quan đó tôi thấy tôi, thấy những con-người-sống-đã-chết, thấy những hồn ma lạ lẫm như nhà thơ Lưu Quang Vũ đã chua chát khắc thành thơ:

Đến những người anh tin, giờ cũng đổi thay
Tới nụ cười cũng phải ... đắn đo
Vâng, người già có nỗi buồn của người già
Nhưng người trẻ có cái buồn chẳng trẻ.


Chẳng biết nói gì hơn là cám ơn đảng và nhà nước vinh quang đã trao tặng nhân dân những nỗi-buồn-già-trẻ.

Đêm nay tôi tự do ngồi một mình thầm thì nói chuyện với đầu gối của tôi về tự do. Ngọn đèn đường bên ngoài cửa sổ lúc tỏ lúc mờ nghiêng tai nghe ngóng. Đầu gối bên phải của tôi nhất quyết rằng nếu một người chỉ muốn tự do cho chính họ đến mức độ nào đó thôi thì đó là quyền của họ, không ai khác có quyền bắt người đó phải tự do hơn! Đầu gối bên trái lên giọng quả quyết: không ai có quyền cho rằng tự do như thế là đủ rồi và áp đặt mức độ tự-do-đủ-rồi đó lên mọi người. Ngọn đèn đường bên ngoài tỏ sáng xầm xập xen vào: quyền tự do của mỗi người trong xã hội phải do chính người dân tự quyết định một cách dân chủ, dựa vào sự hòa đồng, không phương hại đến người khác, có vậy xã hội mới có thể có hạnh phúc, mọi sự áp đặt đưa tự do vào khuôn khổ chỉ làm khổ tự do.

Tôi thở dài xót thương cho hai cái đầu gối, ngọn đèn đường và nhớ tới những dòng chữ của Dương Thu Hương. Mới đây thôi nhưng dường như đã đi vào quên lãng:
Không khát vọng nào phải trả giá đau đớn hơn tự do. Không thách đố nào khắc nghiệt hơn tự do. Người ta vừa thèm khát vừa khiếp sợ nó.

Thèm khát. Khiếp sợ. Tự do!

Như con chim nhỏ thơ ấu của tôi ngày xưa đã một lần thèm khát bay cao nhưng đôi cánh đã bất lực theo tháng ngày co cụm. Như con chim nhỏ thơ ấu của tôi ngày nào đã một lần lạ lẫm, khiếp sợ khi cánh cửa lồng hé mở. Và tôi, vẫn là kẻ thèm khát hay khiếp sợ trong bóng đêm tự do ?.

05 tháng 11, 2004

Dân Chủ và Dân Trí - Trước hay Sau (CT6)


Tạ Vũ


Thế rồi cuộc bầu cử đầy khó khăn thử thách tại Afghanistan cũng đã diễn ra vào ngày thứ bảy 9 tháng 10 năm 2004. Hơn 10 triệu cử tri, đa phần mù chữ và chỉ có thể bỏ phiếu bằng hình, đã vượt qua nỗi sợ hãi bởi các lời đe dọa của những thành phần tàn dư Taliban, vượt qua những đoạn đường đất vắt qua núi đồi hàng mấy chục cây số để đi bộ đến nơi bỏ phiếu. Không khí hồ hởi hiện rõ trên cả nước. Nhiều người dân Afghanistan trả lời các phái đoàn quốc tế đến giám sát cuộc bầu cử bằng nụ cười rạng rỡ với câu trả lời "chúng tôi rất mong cuộc bầu cử này sẽ đem lại hòa bình và an ninh". Những người bạo dạn hơn thì giải thích: "chúng tôi mong có một tổng thống để khỏi phải sống dưới ách các ông lãnh chúa và nhìn cảnh đổ máu triền miên".


Ngoại trừ một vài sự cố khiếu nại gian lận lẻ tẻ, hầu hết giới quan sát đều khen ngợi thành quả vượt bậc của chính phủ chuyển tiếp dưới quyền ông Hamid Karzai. Chỉ trong vòng 3 năm, đất nước này đã đi từ một chế độ độc tài, cuồng tín và bệnh hoạn sang một thể chế dân chủ cùng xu hướng với thời đại. Dân chúng Afghanistan từ vị trí có thể bị đánh đập bất cứ lúc nào trên đường phố không cần lý do sang vai trò quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước.

Nhưng rồi cũng chính hiện tượng "đổi đời" này khiến người ta bật lên câu hỏi: "Dân Afghanistan đã sẵn sàng cho thể chế dân chủ chưa ? "hay cụ thể hơn nữa: "Lá phiếu của những người còn mù chữ có mang giá trị gì không ?". Đây không phải là câu hỏi riêng cho người dân Afghanistan mà đã từng được nêu ra trong thời khởi đầu của hầu hết các nền dân chủ vững mạnh hiện nay. Cốt lõi của những câu hỏi đó là "Cần nâng cao Dân trí trước thì mới có thể chuyển sang một nền Dân chủ đúng nghĩa, hay phải có Dân chủ trước mới mong nâng Dân trí lên được ?"

Cuộc tranh luận này kéo dài hàng thế kỷ và bất phân thắng bại trên mặt lý thuyết. Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả giữa hai chọn lựa kể trên đã rõ như ngày và đêm. Cụ thể như tại Hoa Kỳ, không ai chối cãi là đã có hiện tượng kéo dài nhiều năm trong đó những kẻ giàu có khuynh loát hệ thống dân chủ để thao túng quyền hành cai trị trên một quần chúng nhân dân thiếu học. Nhưng trong thể chế dân chủ không ai có thể ngăn chặn quần chúng tiến lên bậc thang giáo dục hoặc độc quyền quyết định các lãnh vực giáo dục. Và thế là với mỗi thế hệ dân chúng đạt đến trình độ giáo dục cao hơn thì hệ thống dân chủ càng loại bỏ được những kẻ lạm quyền và quyền quyết định càng thuộc về quần chúng nhân dân. Nhìn sang các nước láng giềng của chúng ta, không ai chối cãi những cảnh đấm đá ngay tại quốc hội Đài Loan, cảnh các thủ tướng Hàn Quốc bị còng tay dẫn đi về tội tham nhũng, cảnh rối bời trong quốc hội Ấn Độ vì quá nhiều đảng phái. Nhưng đến hôm nay thì cả thế giới công nhận ba thể chế dân chủ đó đã trưởng thành và là nền tảng đẩy cả nền kinh tế lẫn mức độ dân trí tăng vọt.

Ngược lại, tại Trung Quốc và Việt Nam ta, cả hai chính phủ đều nhân danh trình độ dân trí thấp và nhu cầu ổn định, phát triển để ngăn cấm các sinh hoạt dân chủ. Câu hỏi đầu tiên: một chính phủ sau 50 năm không nâng nổi mức dân trí lên bằng các nước chung quanh, có đáng tiếp tục nắm quyền không ? Câu hỏi thứ hai: một chính quyền độc tài có muốn nâng cao dân trí để rồi phải đối diện với các đòi hỏi dân chủ trong dân chúng không ? Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn khẳng định chế độ độc tài thực dân Pháp chủ trương "ngu dân" để cai trị, còn chế độ độc tài, độc đảng hiện nay trên đất nước ta thì sao ?

Kế đến, hàng trăm nước trên thế giới suốt từ thế chiến 2 đến nay đã chứng minh ổn định xã hội lâu dài và phát triển kinh tế bền vững đòi hỏi phải có một nền tảng dân chủ làm hạ tầng. Cách duy trì ổn định bằng bộ máy cai trị công an chỉ là dấu đi những uất ức chờ ngày bùng nổ. Đồng thời, cách phát triển kinh tế cùng lúc với chính sách giới hạn dân trí chỉ dẫn đến nạn hủy hoại môi sinh, tăng tốc tham nhũng và băng hoại xã hội. Tất cả những điều này đang diễn ra tại nước ta ngày hôm nay!

Tóm tắt lại, Dân chủ không phải là phép lạ để cung cấp ngay một chính quyền toàn vẹn, nhưng Dân chủ là phương tiện hữu hiệu để chuyển biến hệ thống chính quyền ngày một tốt hơn mà không cần phải đổ máu. Quá trình xây dựng chính quyền bằng thể chế dân chủ được khởi động càng sớm, thì một Nhà nước đúng nghĩa càng chóng được đạt tới. Mọi lý lẽ viện dẫn "vì Dân trí thấp mà ngăn chặn Dân chủ" đều là những ngụy biện lạc hậu. Lạc hậu hơn cả đất nước Afghanistan dưới chế độ Taliban độc tài, cuồng tín và bệnh hoạn.

Canh Tân Con Người trong Hoàn Cảnh Việt Nam Hiện Tại: Làm Sao mà Đổi Mới (CT6)


Trần Thiên Ân

Trong bài trước (Canh Tân #5), chúng ta đã thấy đổi mới con người sau giai đoạn độc tài toàn trị chẳng qua là trở lại cái bình thường đã bị phá bỏ bởi chính sách toàn trị. Nhưng cái bình thường đó là cái gì và tại sao một chế độ được ca tụng là tốt đẹp không có chỗ nào chê mà lại phá bỏ cuộc sống bình thường của con người như vậy? Trước khi có chuyên chính vô sản và chủ nghĩa duy vật, cái bình thường là noi theo những lề thói hành xử được qui định bởi tam giáo Khổng Lão Phật. Noi theo thôi, chứ thực ra không phải ai cũng làm được đúng những tiêu chuẩn đó. Nhưng cho dù không làm được hết thì đó cũng là những tiêu chuẩn giá trị để phán xét, và như thế do phân biệt phải trái mà có được trật tự hài hòa xã hội tối thiểu. Cái trật tự đó nước ta hiện nay không có. Chỉ cần nhìn vào cảnh xe chạy ngoài đường hay đọc thoáng qua các chuyện trên báo hàng ngày là thấy. Có người bào chữa cho rằng đó là những hệ quả không tránh được khi đi theo kinh tế thị trường. Điều này đúng sai ra sao thì sẽ bàn tới sau. Nhưng mà ngay cả thời toàn trị nghiêm ngặt cũng không có nổi cái bình thường, khiến cho đạo diễn Trần Văn Thủy đã phải làm cuốn phim "Chuyện Tử Tế", khi mà tình hình đã có thể nói ra phần nào tâm sự. Ngay hiện tại, người để ý đối chiếu những điều nhà nước chính thức nói với những điều thực sự xẩy ra trước mắt hay thực sự nhà nước làm, cũng thấy rằng không có bình thường, vì rằng trắng bảo là đen, xấu khen là tốt.

Người ta đã nói nhiều về những chuyện con tố cha, vợ tố chồng thời cải cách ruộng đất, truyền miệng và trên thơ văn (không nhiều) của văn nghệ sĩ miền Bắc. Người ta kể lại vô số những bà con họ hàng miền Bắc làm lớn vào tiếp thu miền Nam năm 1975. Gặp anh em con cháu thì miệng nói rất thân thương tình nghĩa. Nhưng hoàn toàn ngoảnh mặt quay đi khi bà con miền Nam gặp những khó khăn có thể giúp đỡ. Ai cũng biết khi nói lời tốt đẹp chia xẻ tình nghĩa thì người ta cũng biết đến thế nào nào là tình nghĩa. Nhưng cái văn hóa toàn trị với đảng trên hết nó đã làm thui chột tất cả, chỉ còn để lại những lời khôn khéo dễ nghe. Để người nói tự an ủi rằng mình còn tình nghĩa, dù chỉ trong đầu óc, hay là vì đã quen nói những điều quan chức đảng muốn nghe dầu mình không nghĩ thế để tồn tại, mà cũng có thể là vì muốn phân bua rằng mình có tình nghĩa nhưng không thể làm được gì. Sống trong môi trường có sao nói vậy, người ở miền Nam chỉ thấy rằng "trăm voi không được bát sáo", lời nói khác xa việc làm và vì thế cho nên, miền Nam, sau một thời gian, đã xuất hiện câu "vào vơ vét về" chua chát.

Trong những ngày đầu cách mạng tháng 8, quả thật là có nhiều người đã hy sinh, theo tinh thần tổ quốc trên hếtđảng trên hết vì tin rằng đảng phục vụ tổ quốc. Nhưng khi đảng trở thành toàn trị thì không còn tổ quốc mà chỉ còn đảng đáng sợ, vì không theo đảng là chết chóc tù đầy. Cái sợ mà Nguyễn Tuân nói ra lúc cuối đời, cái ngoảnh mặt đi trước mọi bất thường, bất công, cái ù lì đồng ý , cái luồn lách kéo dài tới hiện nay, đã trở thành qui luật sống bình thường.

Nhắc lại những sự kiện trên không phải là để chê bai thêm những điều tệ hại đã và đang xẩy ra, mà chỉ để thấy rằng con người bất thường và hủ hoại không nhất thiết chỉ vì không biết điều bình thường, không hiểu điều tồi tệ, mà chỉ vì đã bị môi trường, hoàn cảnh, khiến phải như thế. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan, (một người ở miền Nam hoạt động chống Mỹ cứu nước, nay đã lấy vợ bỏ tu) sau tháng 4/1975 trong bài viết "Hà Nội Tôi Thế Đấy" đã kể một chuyện lý thú trong chuyến ra thăm Hà Nội. Một kỹ sư Đông Đức đi thăm một nhà máy thấy người kỹ sư Việt Nam thao tác không có năng xuất, đã đẩy ông này ra, cầm lấy dụng cụ biểu diễn để hướng dẫn. Người Việt Nam không nói năng gì. Lúc trở lại chỗ làm, ông ra tay còn nhanh và khéo hơn người kỹ sư Đông Đức. Trước sự ngạc nhiên của người khách ngoại quốc, người công nhân Việt Nam nói vắn tắt "Ông có biết ông lĩnh lương gấp mấy lần tôi không? Làm như ông thì mấy lúc tôi ho lao chết?". Đấy là một cái bình thường bất bình thường ở dạng ít tiêu cực nhất ngay tại thủ đô dưới mắt của một người hoạt động miền Nam, trong niềm phấn khởi hân hoan sau khi đất nước thống nhất ra thăm Hà Nội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp của "niềm tin yêu và hy vọng". Hiện nay, những người Việt nước ngoài về thăm nhà, ít ai mà không trải qua những chuyện bị làm khó dễ, từ hoạch họe giấy tờ đủ điều đến chuyện lục tung hành lý, kéo dài mấy tiếng đồng hồ để xét, nếu không chịu theo đúng qui luật "đầu tiên" là kẹp mấy đô la vào giấy tờ. Các nạn nhân chỉ lắc đầu, nhưng hiểu rằng những nhân viên đó phải như thế vì muốn làm ở hải quan thì phải nộp hối lộ và đóng hụi chết định kỳ. Và tự nhủ chỉ sẽ trở lại thăm quê hương nếu có lý do bất khả kháng.

Câu chuyện của ông Nguyễn Ngọc Lan và không biết bao nhiêu chuyện tương tự khác đã và đang xẩy ra cho thấy canh tân con người không chủ yếu chỉ là học theo kỹ thuật mới. Kỹ thuật đúng là cần cho con người đóng góp có hiệu năng và phẩm chất, nhưng không đủ, và không ích lợi, nếu không có tư thái hành xử bình thường, chưa nói đến là phải tích cực. Kỹ thuật học nhanh, từ vài tháng đến vài năm là đủ trở thành dùng được. Canh tân khả năng kỹ thuật chỉ mới là một phần tư công việc. Canh tân tư thái hành xử là một phần tư nữa. Tổng cộng mới đạt 50% yêu cầu. Để làm được chuyện canh tân trọn vẹn thì phải có môi trường và hoàn cảnh thuận lợi, như ta thấy sau khi nhìn lại những sự kiện nói trên, thì mới hoàn thành 100% công việc. Và như thế, tới đây chúng ta đã trả lời câu hỏi thứ hai khi ở phần mở đầu của bài này, là "làm sao đổi mới".

Nói cho rõ thì con người không thể đổi mới nếu không đổi mới cơ chế và môi trường xã hội.

Thực tế trước mắt cho thấy như thế. Lịch sử hay sách vở cũng cho thấy như thế. Đã có đi học qua lớp tiểu học, có lẽ ai cũng biết câu Án Tử đi sứ trả lời vua Tề trong Cổ Học Tinh Hoa "cây quít ở phía Nam sông Hoài thì ngọt ở phía bắc sông Hoài thì chua. Cùng một giống quít mà chua ngọt khác nhau, ấy là vì thủy thổ khác nhau vậy". Thủy thổ (đất và nước) thì ảnh hưởng lên cỏ cây hoa trái. Chế độ chính trị xã hội thì ảnh hưởng cách sinh hoạt và cư xử con người.

Canh tân cơ chế và môi trường xã hội phải tiến hành song song, nếu không muốn nói là tiến hành trước canh tân con người. Chúng ta sẽ không bàn luận ở đây về thứ tự trước sau này, vì nó cũng giống như tranh cãi trước sau của con gà và quả trứng. Khi nói tiến hành song song, thì chỉ có nghĩa rằng ta cần ý thức rõ nhu cầu tiến hành cả hai để có thể thành tựu sự nghiệp cách mạng canh tân đưa đất nước ra khỏi khổ nạn hiện nay và xây dựng đất nước trở thành thái hòa an lạc.

Xã Hội Công Dân và Dân Chủ Đa Nguyên (CT6)

Ngọc Châu


Ở một xã hội công dân, trong khi phấn đấu để phát triển đời sống cá nhân, người dân vẫn luôn luôn có tinh thần trách nhiệm để tự nguyện tham gia vào tiến trình phát triển chung của đất nước. Một xã hội thiếu tinh thần công dân khi mọi người chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của gia đình và phó thác tương lai của đất nước cho người khác. Một xã hội mà mỗi người chỉ lo nhắm mắt làm giàu, không muốn hoặc không thể cộng tác với người khác để lo cho công việc chung thường là một xã hội đắm chìm trong đói nghèo, chậm tiến và mọi phát triển cá nhân chỉ là ngắn hạn và bấp bênh trong bối cảnh tụt hậu chung đó. Vì thế, chỉ khi nào người dân không nghĩ mình chỉ là một cá thể riêng biệt, mà thay vào đó, tự cho mình có trách nhiệm, bổn phận và khả năng góp phần ảnh hưởng lên guồng máy vận hành hoặc tương lai của cả quốc gia, thì ý thức công dân của xã hội đó sẽ phát triển, đất nước đó sẽ có cơ hội hưng thịnh.


Trong những nghiên cứu về ảnh hưởng của trình độ công dân với phát triển dài hạn của quốc gia, người ta thấy rằng thành quả của các chính sách cải tổ chính trị, dân chủ hóa không hoàn toàn lệ thuộc toàn bộ vào mức độ phát triển kinh tế, sự phồn vinh của xã hội mà còn tùy thuộc rất nhiều vào tinh thần công dân của nhân dân nước đó.

Ý thức công dân không phải tự nhiên mà có và không phải chỉ hiện hữu trong thời đại văn minh của thế kỷ 21. Từ nghìn năm qua, dân tộc ta đã xây dựng được ý thức công dân qua những truyền thống cỗ truyền và sinh hoạt làng xã. Tuy nhiên ý thức công dân đã bị xóa mờ trong khung cảnh của một nền chính trị độc tài toàn trị để rồi qua năm tháng, người dân đã mất hẳn tư duy và quyền hạn làm chủ vận mệnh của riêng mình, cũng như góp phần vào việc quyết định vận mạng chung của đất nước. Đó là chưa nói đến sự ì tính và tình trạng phá sản về tư thái con người do chủ thuyết cộng sản và guồng máy đảng trị gây ra theo năm tháng. Để xây dựng lại ý thức công dân đại chúng, giáo dục học đường là nền tảng khởi đầu. Tuy nhiên giáo dục không cũng chưa đủ. Môi trường sinh hoạt xã hội còn phải tạo điều kiện để tinh thần công dân được ươm mầm kết trái. Từ đó chúng ta cần nói đến thể chế Dân Chủ Đa Nguyên và mối tương quan giữa ý niệm này và ý niệm Xã Hội Công Dân.

Ngày hôm nay chúng ta nói nhiều đến nhu cầu dân chủ hóa. Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu cũng như thực tế tại các nước dân chủ tiên tiến cho thấy mức độ ý thức công dân là yếu tố quan trọng nhất để nuôi dưỡng, bảo vệ và phát huy nền dân chủ lâu dài. Cốt lõi của tinh thần công dân là người dân kết hợp bởi ý thức về quyền lợi chung của quốc gia chứ không phải vì quyền lợi cá nhân hoặc phe nhóm. Ở một mức độ cao hơn, với tinh thần tôn trọng công ích chung, người dân tham gia những sinh hoạt xã hội, chính trị do sự thúc đẩy của tinh thần công dân nhiều hơn là động lực của lòng vị tha, bác ái. Nói cách khác, ý thức công dân dẫn đến nhu cầu cùng nhau làm chủ xã hội vốn là nền tảng căn bản của Dân Chủ. Do đó, ý niệm Xã Hội Công Dân cần phải song hành với ý niệm Xã Hội Dân Chủ trong tiến trình canh tân con người và canh tân đất nước.

Khi nói đến ý niệm Đa Nguyên trong cụm từ Dân Chủ Đa Nguyên, nhiều người thường giới hạn tính đa nguyên trong khuôn khổ chính trị, tức là sự hiện hữu và hoạt động của nhiều đảng phái với sự công nhận chính thức bởi hiến pháp và được bảo vệ và tôn trọng bởi luật pháp. Thực chất, đa nguyên chính trị chỉ là điểm đến cuối cùng trong tiến trình xây dưng nền dân chủ đa nguyên được thể hiện trong một biểu đồ kim tự tháp đi từ thấp đến cao như sau:


Trong mô hình kim tự tháp này, đa nguyên được bắt đầu từ nền tảng của sự đa dạng về tư tưởng và cách sống của mỗi cá thể. Không thể có đa nguyên khi con người bị thống trị bởi một tư tưởng, một chủ thuyết và mọi sự thể hiện tư tưởng, cách sống ngoài dòng thống trị đều bị ngăn cấm hoặc bị trù dập.

Khi có được đa nguyên trong tư tưởng, sinh hoạt cá nhân thì nhu cầu tìm đến nhau dựa trên những điểm chung của một số người sẽ xảy ra. Đây là nhu cầu xúc tác ban đầu để hình thành xã hội công dân với nhiều đoàn thể tư nhân, được thành lập một cách tự phát, với những sinh hoạt đứng ngoài vòng kiềm chế của nhà nước hoặc của đảng cầm quyền. Những tập hợp này không mang nặng tính chính trị như các hội thể thao, tương tế, văn hóa, nghệ thuật... nhưng chúng lại là nền tảng để thành hình hoặc duy trì thể chế chính trị dân chủ. Thực tế ở Đông Âu cho thấy sau khi thể chế độc tài ra đi, những phát triển trong lãnh vực sinh hoạt tư nhân ngoài phạm vi của chính trị đã đem đến kết quả tốt đẹp và có ảnh hưởng tích cực lâu dài cho nền tảng dân chủ. Từ đó, số lượng hội tư nhân của quần chúng đã được một số nhà nghiên cứu dùng làm chỉ số đo lường trình độ công dân của một nước. Chỉ số này gia tăng khi người dân mở rộng những sinh hoạt chung sang lãnh vực giáo dục, kinh tế, tôn giáo. Đây là lúc mà mỗi cá nhân nhận thức rằng mình không thể tự đứng một mình để phát huy kiến thức, tiềm năng kinh tế hay đời sống tâm linh mà phải liên kết với nhiều người để có những đóng góp thiết thực cho những hệ thống của các lãnh vực này. Chỉ số gia tăng theo hình kim tự tháp khi người dân bước vào lãnh vực nghiệp đoàn, truyền thông, báo chí để chủ động tranh đấu quyền lợi của một tập thể, thông tin và nói lên tiếng nói của một số đông quần chúng. Cuối cùng là những tập hợp chính trị có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách và sự vận hành quốc gia.

Trong suốt tiến trình trên, ý niệm xã hội công dân và dân chủ đa nguyên phải song hành và nuôi dưỡng lẫn nhau. Ở nước ta, hãy bắt đầu bằng việc xây dựng ý thức công dân trong mỗi người và tranh đấu để có những hội đoàn tư nhân độc lập. Đây là nỗ lực không thể thiếu trong tiến trình xây dựng xã hội công dân và nền dân chủ thực sự cho đất nước Việt Nam.

Thể Chế Nào cho Việt Nam? (CT6)


Đ. H.


Nhìn vào cơ chế chính trị và cách thức vận hành của một chính quyền, người ta sẽ biết được dân trí của nước đó ra sao. Lý do:


(1) Cơ cấu chính trị của một nước biểu hiện cung cách sống và ý thức tham gia chính trị của người dân. Nó là tấm gương phản chiếu trình độ giáo dục và tỷ lệ người có học và có kiến thức sống trong xã hội đó như thế nào.

(2) Cách vận hành của một chính quyền biểu hiện mức độ tham gia và kiểm soát của người dân vào các hoạt động của những cơ cấu hành chánh từ trung ương đến địa phương. Mức độ tham gia và kiểm soát này phần lớn tùy thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm trong sinh hoạt chính trị của người dân.

Ngày nay khi nói đến cơ cấu chính trị của một quốc gia, người ta dựa theo nguyên tắc phân quyền, đặc biệt là dựa theo mối quan hệ giữa hai bộ phận Lập pháp và Hành pháp để thiết lập ra những mô hình của cơ cấu cai trị, còn gọi là thể chế chính trị. Nghĩa là các quốc gia thường dựa vào mối liên hệ giữa Lập Pháp (cơ quan làm Luật) và Hành Pháp (cơ quan thi hành luật) để vạch ra một nền tảng pháp lý chung cho quốc gia, gọi là mô hình chính trị. Hiện nay trên thế giới, tuy có rất nhiều mô hình, nhưng tựu trung đều triển khai từ ba loại thể chế: chế độ nghị viên nội các; chế độ tổng thống và chế độ đảng trị. Đây là ba thể chế được hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng với một vài pha lẫn nét đặc thù của mỗi địa phương. Câu hỏi được đặt ra: Thể chế nào thích hợp cho Việt Nam?

Việt Nam sẽ phải chọn lựa một thể chế chính trị phù hợp để đáp ứng ba nhu cầu sau đây:

(1) Bảo đảm được sự độc lập và phân quyền rõ rệt giữa ba ngành Lập Pháp - Hành Pháp - Tư Pháp. Không tạo điều kiện cho bất cứ một đảng phái nào có thể khống chế nền chính trị quốc gia; nhưng thể chế đó cũng không tạo ra tình trạng hỗn loạn chính trị do sự tồn tại quá nhiều đảng phái trong cơ chế lập pháp;

(2) Tổ chức được một chính quyền mạnh có khả năng lấy những quyết định cần thiết để giải quyết những vấn đề khẩn cấp của quốc gia. Cơ chế chính trị phải phân biệt rõ ràng giữa người phụ trách và bộ máy hành chánh. Bộ máy hành chánh phải được tôn trọng và bảo vệ; nhưng người ở các trách vụ này từ trung ương đến địa phương, nếu vi phạm những quy định luật pháp, sẽ phải chịu chế tài đúng mức, chứ không thể tự đồng hóa với cơ chế để ở trên luật pháp;

(3) Tạo môi trường và điều kiện để hỗ trợ sự xuất hiện của những đoàn thể chính trị quần chúng. Chính sự hoạt động của các đoàn thể quần chúng sẽ giúp nâng cao dân trí và khuyến khích người dân trực tiếp tham gia vào dòng sinh hoạt chính trị quốc gia. Nói cách khác, sinh hoạt chính trị của nước Việt Nam mới phải chuyển từ mô hình "đại biểu" (tức uỷ thác hoàn toàn cho người đại diện dân) sang mô hình "tham gia" (tức các đoàn thể quần chúng cùng có trách nhiệm bàn thảo và góp ý về những chính sách chung của quốc gia).

Dựa theo ba nhu cầu nói trên và căn cứ vào hiện tình đất nước mô hình chính trị phù hợp cho Việt Nam có thể nên là Tổng thống chế. Với ba lý do:

(1) Việt Nam cần phải phân biệt rõ rệt quyền hạn và trách nhiệm của ba cơ quan Lập Pháp (quốc hội), Hành Pháp (chính phủ) và Tư Pháp (tòa án) ngay từ đầu, để xây dựng một nền tảng pháp trị có đặc tính cân bằng và kiểm soát lẫn nhau. Muốn như vậy, Tổng thống chế là cơ chế tạo được sự phân biệt rõ rệt, vạch lằn ranh trách nhiệm rõ ràng giữa ba cơ chế mà không một phía nào có thể đổ lỗi một khi có khủng hoảng xảy ra, nhất là trong bối cảnh phôi thai xây dựng nền dân chủ lập hiến.

(2) Trong giai đoạn phôi thai của nền dân chủ, sẽ có rất đông đảng phái, tổ chức chính trị xuất hiện để ra ứng cử tham gia vào cơ chế lập pháp. Nếu áp dụng chế độ nghị viện (là thể chế dựa trên ưu thế của Lập pháp, đảng phái nào chiếm đa số trong quốc hội sẽ nắm quyền toàn bộ) thì trong bối cảnh đó sẽ khó có đảng phái nào chiếm ưu thế để ra cầm quyền mà phải cần một liên minh chính trị. Liên minh chính trị sẽ không làm cho chính phủ mạnh vì phải thoả hiệp nhiều xu hướng, hậu quả là chính quyền sẽ không thể nào có những biện pháp mạnh và thích ứng để đưa đất nước vượt ra khỏi những khủng hoảng một cách nhanh chóng. Do đó, Tổng thống chế giúp cho chính quyền tạo được tư thế mạnh vì Tổng thống do quần chúng bầu ra trong cuộc tổng tuyển cử chứ không do quốc hội bầu lên, nên không bị những hăm dọa truất phế từ quốc hội mỗi khi có những xung đột ý kiến hay quan điểm giữa hành pháp và lập pháp.

(3) Tạo điều kiện cho những đảng phái mạnh có điều kiện tiến hành những chính sách canh tân đất nước theo những chủ trương đã được toàn dân tín nhiệm trực tiếp qua lá phiếu. Thông thường trong Tổng thống chế, người dân vừa tín nhiệm ứng cử viên tổng thống sáng giá nhưng cũng đồng thời tín nhiệm cả những chính sách của đảng hay của phong trào đã đứng sau người ứng viên tổng thống ra tranh cử. Vì thế sự tín nhiệm của người dân vào một ứng viên Tổng thống cũng đồng thời gián tiếp biểu hiện sự ủng hộ những chính sách canh tân quốc gia. Trong khi đó, với chế độ nghị viện và trong bối cảnh phôi thai của chế độ dân chủ, khó có đảng nào chiếm ưu thế mà phải tạo thế hợp tác, cho nên chính sách canh tân của mỗi đảng bị thay đổi hay biến dạng khi đi vào thế liên minh.

Từ vài nhận định chủ quan của người viết, Tổng thống chế là thể chế chính trị phù hợp cho Việt Nam trong giai đoạn hậu độc tài và đó cũng chính là mục tiêu cần sự quan tâm của những người có tâm huyết vì dân tộc để tạo dựng được một chính quyền mạnh và huy động được sự ủng hộ của mọi giới.

05 tháng 10, 2004

Việt Nam Trước Cơn Lốc Toàn Cầu Hóa (CT5)


Đoàn Minh

Từ đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản đã vẽ lên một thế giới lý tưởng, trong đó không còn biên cương quốc gia, không còn cảnh người bóc lột người, tài nguyên được phân chia hợp lý, con người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu v.v... Bức tranh "thế giới đại đồng" này đã nhoè nhoẹt nhiều với sự rạn nứt của khối cộng sản giữa hai khuynh hướng Liên Xô, Trung Quốc từ thập niên 60 và đã hoàn toàn tan vỡ khi chủ nghĩa cộng sản chính thức cáo chung tại Liên Xô là nơi đã khai sinh ra nó vào năm 1991. Oái oăm thay, cái ý niệm biên giới quốc gia trở nên mờ nhạt, tài nguyên phân phối nhanh chóng, khả năng lao động của mỗi nước được khai dụng phù hợp nhu cầu lại đang được diễn ra dưới sự dẫn dắt bởi một "bàn tay vô hình" của kinh tế tư bản. Đây là một tiến trình mà ngôn ngữ thời đại gọi là toàn cầu hóa. Dù tiến trình này đã có từ trước, nhưng gần đây do sự bùng nổ của cách mạng tin học, sự tăng trưởng cấp lũy thừa của khoa học, hiện tượng toàn cầu hóa này đã "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" và hiện đang chi phối hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy toàn cầu hóa là hệ quả của phát triển khoa học, kỹ thuật và tiến bộ của nhân loại nhưng điều này không đảm bảo được một thế giới bình đẳng và hạnh phúc. Sự chênh lệch giàu nghèo quá xa giữa các nước, sự xáo trộn do tiếp cận quá nhanh giữa xã hội của một nước chậm tiến với các nền văn hóa thúc đẩy tiêu thụ, sự băng hoại môi sinh do mục tiêu tham lợi, sự cạnh tranh bất cân xứng giữa các đại công ty và các doanh gia bản xứ... là những vấn đề mà các quốc gia chậm tiến phải quan tâm giải quyết. Như vậy thì toàn cầu hóa đem lợi hay hại cho các quốc gia chậm tiến điển hình như Việt Nam? Đây là một câu hỏi đơn giản nhưng đòi hỏi những lý giải phức tạp. Trong chuyến đi lịch sử viếng thăm Hà Nội, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã đưa ra một thí dụ khéo léo để nói về vấn đề này trước cử tọa là các sinh viên Đại Học Hà Nội. Ông nói: "Chúng ta có thể lấy gió để căng buồm đẩy thuyền đi. Chúng ta có thể dùng nước để sản xuất ra năng lượng. Chúng ta có thể cố công để bảo vệ con người và tài sản tránh bão tố, lụt lội. Nhưng thật là vô nghĩa khi từ chối sự hiện hữu của gió và nước, hay cố gắng làm chúng biến mất đi. Điều này cũng đúng với toàn cầu hóa. Chúng ta có thể làm sao để khai dụng tối đa lợi ích của nó và giảm thiểu những nguy cơ của nó - và nó sẽ không biến mất đi đâu". (We can harness wind to fill a sail. We can use water to generate energy. We can work hard to protect people and property from storms and floods. But there is no point in denying the existence of wind or water, or trying to make them go away. The same is true for globalization. We can work to maximize its benefits and minimize its risks, but we cannot ignore it - and it is not going away).

Để có thể cho nước nâng thuyền mà không làm đắm thuyền theo cách ví von của Bill Clinton, một quốc gia như Việt Nam khi đi vào dòng chảy toàn cầu hóa cần phải chuẩn bị một số các yếu tố sau đây:

  • 1. Một chính sách kinh tế vĩ mô ổn định tạo những điều kiện thích hợp cho đầu tư và tiết kiệm;
  • 2. Chính sách đối ngoại thúc đẩy hiệu năng qua các dịch vụ mậu dịch và đầu tư;
  • 3. Cải thiện cấu trúc kinh tế để khuyến khích sự cạnh tranh của các doanh gia nội địa;
  • 4. Thiết lập các định chế chặt chẽ và một chính quyền hữu hiệu để điều hành tốt quốc gia;
  • 5. Chú trọng giáo dục, huấn luyện, nghiên cứu và phát triển để gia tăng hiệu năng sản xuất.

Tất cả những điều này không phải là những phát kiến mới. Mỗi một yếu tố trên đây đã được giải thích đầy đủ bằng nhiều luận án với các chứng liệu xác thực. Chính quyền các nước đều có thể tham khảo, nhận sự tham vấn từ các chuyên gia để triển khai thành những đề án cụ thể. Tuy nhiên phải chọn các đề án nào và thi hành ra sao lại là một trở lực lớn cho nhiều chính quyền, vì các biện pháp cải tổ thường đụng đến quyền lợi và quyền lực của giới cai trị. Trong một xã hội khép kín, người dân không được thông tin đầy đủ, không có quyền thay đổi chính quyền qua lá phiếu dân chủ thì việc cải cách càng không dễ dàng.

Tóm lại lại chúng ta cần phải có một chính quyền trong sạch, hữu hiệu chú trọng đến canh tân con người, canh tân các cơ chế xã hội, thi hành một chính sách kinh tế nhằm nâng cao sự giàu có về vật chất lẫn tinh thần của người dân, biết chọn lọc tiến hành các đề án phù hợp với những gì đặc thù Việt Nam chứ không phải nhắm mắt cho rằng hễ cái gì mới là tốt. Có như vậy con thuyền quốc gia mới chuyển ngọn gió toàn cầu hóa thành một lực đẩy đưa dân tộc đến bến bờ của vinh quang, hạnh phúc và phát triển. Hơn bao giờ hết dân tộc Việt Nam cần được đổi mới toàn diện và nhanh chóng, vì gió thì không biết đợi.

Canh Tân Con Người Trong Hoàn Cảnh Việt Nam Hiện Tại (CT5)


Trần Thiên Ân


Nói đến canh tân - tức là đổi mới - con người thì ít nhất có hai câu hỏi cần trả lời là: (1) đổi mới con người như thế nào là phải và (2) làm sao mà đổi mới.


Một cách chung chung thì trả lời rằng canh tân là lấy cái hay của người mà theo, thấy cái dở của mình thì bỏ. Nhưng thế nào là hay thế nào là dở thì là một vấn đề có thể gây nhiều tranh cãi (và chúng ta sẽ nói đến trong những kỳ sau). Ngoài ra, cũng có thể nói canh tân là cái cũ bỏ đi, hoàn toàn theo mới. Thí dụ như Mỹ hùng mạnh giầu có, thì cứ bắt chước y chang như Mỹ là ta cũng trở thành hùng mạnh giầu có. Thái độ này không cần suy nghĩ lâu cũng biết ngay là không ổn. Nửa sau thế kỷ thứ 20 đã cung cấp cho chúng ta quá đủ dữ kiện chứng minh: Vì nhắm mắt theo Liên Xô và Trung Quốc đấu tranh giai cấp và cải cách ruộng đất mà Hồ Chí Minh đã phá bỏ sự bình thường của xã hội gồm nhiều giai cấp để thay bằng sự cuồng tín của một giai tầng xã hội lạc hậu dẫn đến những hậu quả tai hại ngày nay.

Nhìn về đầu thế kỷ, cụ Phan Chu Trinh bắt đầu đổi mới bằng sự xoá bỏ cái ì tính cố hữu gắn liền với nếp sống nông nghiệp lạc hậu. Cuộc sống dưới chế độ thuộc địa Pháp với chính sách giáo hóa đào tạo những kẻ thừa hành đã tạo nên ở tầng lớp này hai loại tâm thức đối nghịch: Một đa số thấy rõ thế ưu thắng của Pháp và chấp nhập hợp tác để thoát khỏi cuộc sống bùn lầy nước đọng; hai là một thiểu số khắc khoải về thân phận đen tối của dân tộc mà đi vào đấu tranh hay vận động cải lương, canh tân. Tình trạng con người bị giằng giật không thể quyết định giữa hai thái độ hành xử đối nghịch - yên phậnhoạt động - này đã được cực tả bằng hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

"Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh"

Khi cuộc cách mạng tháng 8 xẩy ra, thì trỗi lên một tâm thức mới, được thể hiện nhiệt tình trong bài hát "Đời sống mới":

Đời sống mới, người Việt Nam mới
Đem thân hy sinh đấu tranh vì non nước
Đời sống mới, người Việt nam mới
Xây núi sông bằng máu người Việt nam

Trong thực tế, sự đổi mới con người đã diễn ra ở những ngày đầu một cách rất tích cực, với điển hình hai phong trào:

1. Phong trào diệt giặc dốt, mở các lớp bình dân học vụ để mọi người dân, mọi lứa tuổi đều biết đọc. Sự ơ thờ của quần chúng đã nẩy ra những câu vè thúc đẩy như "lấy chồng biết đọc là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên con bò" hay "bình dân học vụ lập thành, mau đi tới đó học hành cho thông". Khả năng nhận xét để học hỏi của đa số dân chúng thấp đến nỗi không thể nhận ra mặt chữ cái. Cho nên đã có những câu vè giúp trí nhớ:

o tròn như quả trứng gà
ô thời đội mũ (^), ơ thời thêm râu
a thì có cái móc câu... hay là

i tờ có móc cả hai
i ngắn có chấm, tờ dài có ngang.

2. Phong trào bài trừ mê tín, dẹp bỏ đốt vàng mã, lên đồng lên bóng, tin vào tướng số để tự ru ngủ. Khởi đầu tích cực này đã dẫn đến chỗ phá đình phá chùa, dẹp bỏ truyền thống thờ phượng anh hùng dân tộc trong chiều hướng tiến tới thế giới đại đồng vô sản. Mở đầu là Hồ Chí Minh với bài thơ vịnh Trần Hưng Đạo, tự so sánh mình với bậc anh hùng ba lần đánh tan giặc Nguyên và quảng cáo thế giới đại đồng không biên cương:

"Bác phá quân Nguyên, thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp, ngọn cờ hồng
Bác đem đất nước qua nô lệ
Tôi dẫn năm châu tới đại đồng"...

Nhiệt tình ban đầu của toàn dân đã dần dần nguội tắt với những biện pháp củng cố chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp được đẩy mạnh sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa Lục và viện trợ cho Hồ Chí Minh. Dù phục vụ hay không trong guồng máy chuyên chính vô sản thì xã hội thu lại chỉ còn hai loại người: một số cuồng tín nghe theo lời bác và đảng và một số yên phận im miệng để sống hay/và tồn tại. Trần Độ đã nói đến tình trạng này (một cách tế nhị) qua những bài viết của ông về cuối đời: Những hưng phấn trong ngày đầu cách mạng, và sự im lặng đồng lõa tiếp theo để ngoi lên (như ông), khi những thất ý xẩy ra vì sự đối chọi giữa hình ảnh lý tưởng và thực tế tàn khốc, ti tiểu. Đồng thời tự an ủi mình với thái độ mackeno trong hy vọng chờ đợi ngày thành công cuối cùng sẽ đổi khác. Thực trạng này được diễn ra trong câu nói cửa miệng "thứ nhất ù lì, thứ nhì đồng ý" suốt thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vì thế, Hồ Chí Minh đã phải kêu gọi xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng không định nghĩa nổi con người này là gì, ngoài việc đưa ra một số nguyên tắc hành xử lấy từ hệ thống giá trị cũ của Khổng giáo mà đảng CSVN tìm đủ cách xóa bỏ để củng cố chế độ toàn trị. Đó là những khẩu hiệu "cần kiệm liêm chính", "mình vì mọi người, mọi người vì mình" v.v... gọi là của bác Hồ. Những điều này thật đúng và hay, nhưng nhìn vào thực tế, tất cả chỉ nằm trong cửa miệng mà không hề được áp dụng chút nào từ trên xuống dưới. Khẩu hiệu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đã được lập lại hoài là bởi vì thực sự con người này đã bị giết mất khi chính sách toàn trị được tiến hành. Mặc dầu không thiếu gì chuyện xưng dương những "anh hùng" được ca tụng - một người làm việc bằng mười bằng trăm, và các báo cáo thành tích vượt chỉ tiêu cũng như thắng lợi luôn luôn tràn ngập, với cùng một công thức "nói chung mọi điều là tốt, là thành công, ngoại trừ một thiểu số có những giới hạn nhất định, hay còn tồn tại những tiêu cực, chưa tốt".

Thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã có kêu gọi đổi mới, nhìn thẳng vào sự thực, và khẩu hiệu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đã chìm đi. Nhìn thẳng vào sự thực đúng là một đổi mới con người quan trọng, khác hẳn cái tâm thức chung xã hội chủ nghĩa hiện thực (tức là cái khuôn toàn trị chuyên chính vô sản) là nói cho hay, báo cáo cho đẹp, nhắc lại đúng những khẩu hiệu tuyên truyền, và quay mặt tránh nhìn thực tại đói rách hư hại. Sự đổi mới này tiếc thay rất ngắn. Rồi tất cả lại đâu vào đấy, để khẩu hiệu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa rỗng tuếch trở lại cùng với các thành tích vượt bực của đảng trên giấy tờ và bộ máy tuyên truyền, cho tới nay.

Nhìn lại sự việc như trên thì ta thấy ngay sự đổi mới Nguyễn Văn Linh đề ra và sự xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh hô hào chỉ là dẹp bỏ cái hư hỏng, tiêu cực hiện tại để mà lấy một thái độ bình thường, lương thiện mà ai cũng biết từ lâu. Những bình thường này đã bị phá bỏ bởi chính sách toàn trị. Đổi mới con người trong trường hợp này chẳng có gì là mới, mà thật sự chỉ là sự trở lại cái bình thường vốn có.

Chúng ta đã trả lời một phần câu hỏi "đổi mới con người thế nào là phải". Chúng ta còn tiếp tục trong bài kế tiếp.

Cạnh Tranh và Phát Triển (CT5)


Văn Chu

Trong tháng 10 và tháng 11 tới đây, người dân tại Úc và Hoa Kỳ sẽ có dịp chọn lựa những người lãnh đạo đất nước mình qua bầu cử tự do. Tại hai nước này các đảng phái chính trị và các ứng cử viên đang ráo riết thi đua cạnh tranh nhau để tranh thủ lá phiếu cử tri. Những ứng cử viên hay Ðảng tranh cử đang phải cố gắng trổ tài chứng minh rằng mình giỏi nhất, xứng đáng nhất được bầu chọn. Khi có cạnh tranh như vậy, không chính trị gia nào dám khinh xuất ngồi trên đầu nhân dân hay ngồi im trên ghế quyền lực để hưởng thụ cho riêng mình.

Ở các xứ tự do, thi đua cạnh tranh là một trong những nền tảng của sự phát triển. Sự thi đua và cạnh tranh để làm giầu phát triển tư hữu cũng là động cơ chính của nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế được quyết định và dẫn dắt và tự điều chỉnh bởi chính nhu cầu của quần chúng và thị trường. Nhờ sự cạnh tranh mà các sản phẩm hàng hóa đến tay người tiêu thụ rẻ hơn, phẩm chất cao hơn. Nhờ sự thi đua cạnh tranh mà các cơ sở kinh tế sản xuất đã phải động não phát huy bao sáng tạo trong quản trị và nhiều cải tiến phát minh các sản phẩm mới. Lấy ví dụ con chíp trong các máy vi tính đã càng ngày càng có tốc độ cao, gia tăng với cấp số lũy thừa chứ không còn cấp số nhân nữa, mà lại càng ngày càng gọn nhỏ hơn.

Hiệu quả của cạnh tranh thi đua cũng được thấy rõ nhất trong các thế vận hội thể thao như tại Athena Hy Lạp vừa qua. Bao nhiêu kỷ lục thế giới đã bị phá vỡ khiến con người ngày hôm nay vươn tới những giới hạn mới, nhanh hơn, xa hơn, cao hơn, khỏe hơn.

Khi đã chấp nhận hiện tượng cạnh tranh công khai, con người tất nhiên phải thiết lập một cơ chế vừa khuyến khích cạnh tranh vừa đảm bảo cho sự cạnh tranh được công bằng để cùng nhau thăng tiến. Cho nên tự nhiên cơ chế này sẽ nghiêm khắc lên án chế tài những trò gian lận, hay chơi xấu hại nhau để kéo đối thủ của mình xuống cho dở bằng hoặc dở hơn mình thay vì cố gắng sao cho mình hay hơn người.

Đảng và Nhà Nước ta hiện nay dư biết rằng sự thi đua cạnh tranh sẽ thúc đẩy sự tiến bộ. Bằng chứng là Đảng ngay từ thời chiến tranh đã luôn luôn bày ra mọi phong trào thi đua quần chúng trên mọi lãnh vực từ diệt Mỹ ngụy, đến văn hóa, xã hội, thể thao, sản xuất, v.v... Có điều lúc đó đảng đã không muốn biết rằng trên lãnh vực kinh tế, khi người dân có quyền tư hữu, làm chủ và trực tiếp thụ hưởng thành quả lao động của mình, dân đâu cần những tiếng thúc động viên bên ngoài của nhà nước để thi đua sản xuất. Ngày hôm nay đảng đã giác ngộ được điều này nên đã để cho kinh tế phát triển theo hướng kinh tế thị trường. Nhờ đó nền kinh tế Việt Nam đi lên thấy rõ.

Câu hỏi đặt ra là dù đảng và nhà nước vẫn biết giá trị ích lợi của sự thi đua cạnh tranh, tại sao họ vẫn nhất định không chấp nhận hiện tượng thi đua cạnh tranh trong chính trị, trong việc điều hành lãnh đạo quốc gia? Nguyễn Vũ Bình chỉ mới xin phép lập đảng chính trị để thi đua với đảng CSVN thì đã bị trù dập bắt tù tội. Biết rằng thi đua thúc đẩy tiến bộ, mà vẫn khư khư giữ độc quyền và ngăn chặn tiêu diệt mọi đối thủ cạnh tranh, Đảng CSVN đã chứng tỏ mình đang ở vị trí phản động đặt quyền lợi của phe Đảng mình lên trên quyền lợi chung của dân tộc và đất nước. Không những thế họ còn cho thấy sự thiếu tự tin nên sợ hãi không dám công khai thi đua cạnh tranh với các tổ chức đảng phái khác. Khi đã phải dùng bạo lực để trấn áp đối thủ cạnh tranh, đảng CSVN cũng cho thấy rằng họ biết rằng họ dở kém hay có tội nên khó có thể chinh phục trái tim và sự tin tưởng của quần chúng nếu để dân tự do lựa chọn. Nhưng càng làm như thế đảng CSVN đang tự mình kềm hãm chính mình trong vũng lầy lạc hậu, vì thiếu động cơ thăng tiến từ cạnh tranh. Chả trách Đảng CSVN càng ngày càng thoái hóa, khiến những đảng viên có lòng và lý tưởng thực sự phải chán ngán bỏ đảng mà đi.

Một khi đảng CSVN đã không dám chấp nhận sự cạnh tranh công khai chính thức, người ta không ngạc nhiên khi thấy những cạnh tranh quyền lực ngấm ngầm trong nội bộ, sau hội trường với những thủ đoạn ma bùn mà vụ đấu đá trong cung đình qua Tổng Cục 2 là ví dụ điển hình.

Canh Tân Giáo Dục (CT5)


Vũ Đại Việt


Người Việt ta vẫn có tiếng là giống dân thông minh hiếu học, cần cù. Với những đặc tính như thế, sao dân ta trên đất nước của mình vẫn nghèo mạt chậm lụt theo sau thế giới? Một trong nhiều lý do quan trọng đang kềm hãm dân tộc ta trong vũng lầy lạc hậu là nền giáo dục của ta. Trong bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi chỉ xin giới hạn vào một khía cạnh cơ bản đầu tiên của giáo dục, đó là tinh thần học.


Văn hóa nước ta đề cao việc học hành. Văn chương truyền đời thi vị hóa hình ảnh của những anh học trò dùi mài kinh sử, vác lều chõng lên kinh đô dự thi. Kết quả và biểu hiệu của sự thành đạt là đậu bằng Trạng Nguyên, để được làm quan to hay Phò Mã rồi vinh quy bái tổ cho bản thân và gia đình nở mày nở mặt với xóm làng. Ít khi thấy đề cập đến trong kho tàng văn hóa dân tộc hình ảnh của những người đồ đạt sẽ làm gì sau đó với những kiến thức học được sao cho đất nước và xã hội khá hơn.

Cho nên tuy văn hóa nước ta đề cao việc học hành, nhưng là đề cao việc học với mục đích đỗ đạt để làm quan hưởng bổng lộc cho bõ những thuở hàn vi mài đũng quần trên ghế nhà trường và đền đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Ấn tượng văn hóa trên vừa thể hiện, vừa duy trì và nuôi dưỡng một tinh thần học với mục đích chính và gần như sau cùng là tốt nghiệp với một mảnh bằng như ý. Cho nên các bậc sĩ phu trí thức của ta sau khi đỗ đạt tốt nghiệp thường coi như mình đã xong, có quyền hưởng nhàn không cần tiếp tục học để trau dồi thêm kiến thức tiên tiến nữa. Ở Việt Nam ngày nay bằng cấp còn trở thành lá bùa cho nhiều cán bộ nhà nước có đủ tiêu chuẩn để ngồi tại chức vụ thủ trưởng cơ quan, hay các chức vụ béo bở khác.

Trong khi đó ở các xứ tiến bộ như Hoa Kỳ, việc tốt nghiệp với mảnh bằng không được coi là điểm đến sau cùng mà chỉ mới là điểm khởi đầu của giai đoạn mới làm việc thực sự. Các lễ ra trường tốt nghiệp được gọi là Commencement Exercise có nghĩa là buổi tháo dợt mở đầu. Mảnh bằng chỉ có giá trị chứng minh rằng người cầm nó đã thu thập được một kiến thức và khả năng tối thiểu nào đó để có thể hành nghề với cấp bậc chuyên môn tương xứng. Áp dụng kiến thức và khả năng vào thực tế làm việc ra sao mới là yếu tố quyết định chính trong việc ấn định bổng lộc, thăng tiến và ổn định nghề nghiệp cá nhân. Trong nhiều ngành học, các văn bằng hành nghề chỉ có giá trị trong một thời kỳ nhất định mấy năm, và được tái cấp sau khi người cầm nó phải chứng minh mình luôn cập nhật kiến thức và tay nghề qua một số giờ tối thiểu học thêm hoặc qua một kỳ thi khảo sát lại.

Chính vì tinh thần học để biết cách làm việc sao cho chính mình và công việc được thăng tiến mà các chuyên gia trí thức ở các nước tiến bộ đại đa số rất nghiêm túc trong vấn đề thi cử. Vì họ ý thức rõ rằng thi cử là để đo lường thử thách khả năng thật của chính mình, chuẩn bị cho tương lai thực tế. Trong khi đó, tinh thần học của dân ta như đã trình bày ở trên dễ đưa đến cái nhìn rằng thi cử là hàng rào trước giải thưởng cuối cùng là
mảnh bằng tốt nghiệp. Và khi mà đã xem mảnh bằng là cứu cánh và thi cử là rào cản, thì người ta sẵn sàng tìm mọi cách để vượt qua rào cản, tìm mọi ngã tắt để đạt mục đích. Môi trường xã hội càng sa đọa, đầy rẫy tham nhũng, thì càng có cơ hội để đi ngã tắt để lấy mảnh bằng. Nên chẳng ngạc nhiên khi ngày nay ở nước ta, gian lận thi cử, dùng phao, thuê người thi giùm, mua bằng v.v... đang trở thành phong trào gần tới mức độ nạn dịch từ cấp lớn tới cấp bé. Việc này đưa đến một hiện tượng nghịch lý mỉa mai: người ta càng coi trọng mảnh bằng để đạt được nó bằng mọi cách, thì mảnh bằng càng trở nên vô giá trị không chứng minh được thực học.

Cho nên một thách đố lớn cho những nhà giáo dục và người cầm quyền hiện nay là làm sao cải tạo tư duy và quan niệm học hành thi cử của dân ta, để canh tân nền giáo dục nhằm đào tạo những trí tuệ Việt Nam có khả năng đưa nước ta hội nhập vào văn minh tiến bộ không ngừng của thế giới.

Tâm Sự của Chim và Người (CT5)


Lê Huyền An

Trên thân thể tôi có một thứ rất dư thừa. Đó là đôi cánh. Thượng Đế cho loài chim chúng tôi đôi cánh. Người cho chúng tôi cái lồng. Thế mới có chuyện dư thừa. Trong những lúc đăm chiêu suy ngẫm, tôi tự hỏi mãi: đôi cánh, cái lồng, thứ nào dư thừa hơn thứ nào?

Phải thành thực mà nói, mới nhìn thoáng qua thì cái lồng tôi ở cũng đẹp lắm. Lồng được sơn bóng một màu đỏ rực rỡ. Mái lồng kiểu Lạng Sơn cong cong như mái đình, pha lẫn nét chạm trổ của Trung Quốc. Trong lồng có ba cái lọ sành bé tí đựng thức ăn, thức uống. Chỉ có tôi mới biết được đằng sau nước sơn bóng loáng đó những thanh tre đã rã mục. Chỉ có tôi mới biết là ba cái lọ sành Liên Xô đã lên mốc bên trong. Từ cái lồng nhìn ra là một khoảnh vườn đầy dây leo. Cố rướn người lắm tôi mới thấy được khoảng trời xanh xanh. Còn phía sau lồng thì lúc nào cũng tối âm u. Và lạnh lẽo.

Tôi chỉ biết hót nhưng không biết nói. Tôi cũng muốn nói lắm chứ. Như con két nhà bên cạnh. Nhưng tôi mới thử được vài câu thì con mèo màu xanh ô liu lại nhảy xổ đến nhe răng gầm gừ hăm dọa. Con mèo xấu xí là cục cưng trung thành của Người, cái trung thành được tưởng thưởng bằng một tách sữa mỗi sáng. Thế là tôi im. Dù thỉnh thoảng đêm tối vắng vẻ tôi cũng thì thầm vài tiếng cho khỏi quên tiếng nói. Thế nhưng tôi vẫn biết rằng với thân phận của mình thì làm gì có được một lời nói giá trị hay ý nghĩa. Từ lúc sinh ra đến giờ tôi chỉ biết nhái lại từ ngữ của Người chớ có bao giờ nói được tiếng nói của Người đâu.

***

Tôi đi làm về thì con sáo đã sổ lồng bay mất. Thường ngày tôi vẫn không để ý đến con sáo đen đủi này nhưng bây giờ nhìn cái lồng mở cửa, vắng bóng tiếng hót của nó tôi lại thấy thiêu thiếu. Cái lồng trống không làm cả căn phòng trống vắng. Con mèo màu ô liu vẫn gầm gừ muốn nhảy xổ lên chiếc lồng như một thói quen tiền kiếp. Lần đầu tiên, tôi thấy nét độc ác của con mèo màu xanh ô liu.

Ba hôm sau, ngày cuối tuần, giữa tiếng ve sầu buồn bã bỗng có tiếng hót của con sáo vang lên từ trên tàng phượng vĩ sau vườn. Tiếng con sáo giữa trưa hè nghe buồn thảm, đứt đoạn như đứa con đi hoang trở về, thấp thỏm, lưỡng lự trước hiên nhà. Rồi sáo lại bay đi. Trưa hôm sau, sáo lại về hót điệu buồn thảm, đứt đoạn trên tàng phượng vĩ. Tôi đem cái lồng ra sơn phết lại, thay ba cái lọ sành Liên Xô bằng bộ tách Trung Quốc rẻ tiền. Trên tàng phượng vĩ, con sáo vẫn cất giọng hót buồn thảm, đứt đoạn. Rồi sáo lại bay đi.

Ba tháng sau, đi làm về, tôi thấy con sáo cúi đầu ủ rũ trong lồng.

***

Tôi đã biết tại sao Thượng Đế ban cho tôi đôi cánh. Tôi đã biết tại sao Thượng Đế tạo nên bầu trời cao xanh. Tôi đã biết thế giới ra sao phía bên ngoài khoảnh vườn u tối. Tôi đã biết cảm giác lâng lâng, kỳ diệu khi xoải cánh bay cao trên tàng phượng vĩ lung linh nắng. Vậy mà tôi vẫn trở về. Và tôi không làm sao biết được rõ ràng lý do trở về của mình. Phải chăng tôi cảm thấy quen lì với cuộc đời tù hãm? Phải chăng tôi sợ đến ngộp thở trước mênh mông của hương trời? Hay từ trong giam cầm của định mệnh, cuộc đời tôi đã thuộc về cái góc xó tối tăm này?

Con két nhà bên lại ồn ào nhái giọng tiếng Người. Con mèo ô liu hung dữ lại gầm gừ qua lại như một hăm dọa thầm kín. Tôi đập nhẹ đôi cánh, rướn người nhìn ra khung trời xanh bé tí đằng sau khoảnh vườn.

05 tháng 9, 2004

Từ Màn Sắt Tới Tường Lửa (CT4)


Lưu Tấn Đông

Trong cuốn phim "Jakob, Kẻ Nói Dối" (Jakob the Liar), nhân vật chính Jakob, một tù nhân Do Thái trong trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Ba Lan, tình cờ được vào phòng làm việc của một sĩ quan quản giáo người Đức. Giữa cơn đói triền miên, Jakob định nhón một mẩu khoai tây trên bàn, nhưng chợt nghe một bản tin từ cái radio để sát tường. Cơn đói bụng bị cơn đói tin đánh quỵ. Jakob nhìn lên bản đồ, định vị những điểm tiến quân của Hồng quân Xô Viết vào biên giới Ba Lan, rồi mang mẩu tin ngắn đó về lán. Từ đó, Jakob tự chế tạo và thậm chí thổi phồng những ước mơ riêng của mình thành những bản tin tưởng tượng để nuôi dưỡng niềm hy vọng của tù nhân về một ngày tự do. Kết quả là ý chí thành lập tổ kháng cự của các bạn đồng tù. Thế mới biết giá trị của món ăn tinh thần cao gấp bội lần những món ăn vật chất.

Sau giai đoạn phát xít Đức, Ba Lan và các quốc gia Đông Âu bị cuốn vào quỹ đạo XHCN. Chính sách tem phiếu và bức màn sắt phủ chụp toàn bộ hệ thống kinh tế và thông tin: cả ngũ cốc lẫn thức ăn tinh thần đều bị gói gọn trong tay đảng. Ngũ cốc được ban phát ít nhiều như một loại ân sủng, nhưng tin tức thì không. Dưới chế độ quản lý nghiêm nhặt bao tử và não bộ, nhân dân đã không tin nhau và không biết tin tức về nhau. Cho tới khi Công Đoàn Đoàn Kết vượt rào, Ba Lan dậy sóng, giật sập các loại màn sắt màn tre, đạp đổ bức tường Bá Linh, kéo theo sự tan rã của Quốc tế III sau đó.

Các bức màn sắt màn tre còn sót lại ở VN cũng cùng chung số phận trước sự nhanh nhạy của hệ thống thông tin quán cóc, xe ôm và hớt tóc dạo. Nhanh nhạy hơn cả là những café internet. Nguyên ủy viên trung ương Trần Hồng Quân đã từng hỏi khó Mai Chí Thọ: “Tôi thấy gần đây dường như Ðảng ta có phần chặt chẽ hơn, hẹp hòi hơn, độc quyền hơn. Có phải chăng ta thiếu tự tin ở chân lý của mình, thiếu tự tin ở bản lĩnh chính trị của mình?”. Từ bấy, nhu cầu cấp thiết của đảng ta là những bức tường lửa internet. Lý cớ chính thức là để chống văn hóa đồi trụy. Lý cớ nội bộ là để giữ ổn định chính trị. Các trang Web “phản động” lần lượt bị chận: rfa.com, fva.org, mangluoi.net, mylinh.us,... Mới đây là diễn đàn văn học talawas.com. Đối thoại về văn học cũng là “phản động” ở thời đại này.

Tất nhiên, cán bộ Ban Tư Tưởng-Văn Hóa đều có mật khẩu để nhập mạng. Tất nhiên, nhân dân cũng có muôn ngàn ngỏ ngách để vượt tường. Thời dựng thành Cổ Loa, dân ta đã ngày xây đêm phá, thì hackers VN ngày nay có mấy khi ngồi đó khoanh tay? Hệ quả là hẽm nhỏ www.proxify.com bật đèn. Hầm chui www.chaoga.com náo nhiệt, rẻ gấp bội lần hầm chui Văn Thánh. Còn nữa. Còn hứa hẹn thêm những chaohuyet.com, chaolong.com… Mới biết ra, hễ có tường thì tất yếu có cách vượt tường.

Nhìn ngược lại, rõ ràng, Cải Cách Ruộng Đất là chính sách khuyến khích tội ác; Hợp Tác Xã là mô hình đề cao tính trây lười; Tem Phiếu là phương thức phát huy tinh thần ỷ lại; Tiêu Diệt Tư Sản là kế hoạch đẩy dân vượt biên vượt biển; Ngăn Sông Cấm Chợ là cha đẻ của buôn lậu, từ xuyên ranh giới huyện tới xuyên biên giới nước; Ổn Định Chính Trị là chính sách vinh danh bạo lực, dưỡng mẫu của nạn bảo kê... Hôm nay, Tường Lửa Internet cũng là thứ chính sách ngu dân và khuyến khích nhân dân leo tường, vượt cổng. Có nghĩa rằng, đi từ chính sách triệt tiêu tính người thời Cải Cách Ruộng Đất, Đảng và Nhà Nước ta đã đổi mới và tiến lên chính sách khuyến khích và điều kiện hóa cho nhân dân sống phi pháp. Để chi ? Còn gì nếu không phải chỉ để bảo vệ một chế độ vốn dĩ thoát thai từ hai yếu tố phi nhân và phi pháp? Vạn Lý Trường Thành cũng từng được xây dựng trên hàng triệu xác dân, để bảo vệ chế độ, nhân danh bảo vệ bờ cõi, như thế đấy.

Các vì vua hôn ám thời đó chỉ không thấy ra rằng về sau này, bức tường chỉ còn mang ý nghĩa của một tụ điểm du lịch. Giá trị kỳ quan của nó chỉ còn thu gọn vào một câu: nhất tướng xây thành, vạn cốt khô. May mà nhân loại có dịp chiêm ngưỡng một công trình để đời vào cuối thế kỷ 20: Bức tường Bá Linh ô nhục đã sụp đổ mà không tốn một viên đạn, một giọt máu. Mới hay là đúng, sức tiến của nhân loại trong thế kỷ qua đã sánh ngang bằng sức tiến của cả 19 thế kỷ trước gộp lại. Thế thì, khi màn sắt đã chảy, màn tre đã cháy, liệu tường lửa của thời đại kỹ thuật hôm nay đứng vững bao lâu? Chẳng thế mà nguyên ủy viên BCT Mai Chí Thọ than rằng: “chẳng bao lâu nữa, Đảng mất quyền lãnh đạo”. Còn thành ủy viên kiêm trưởng ban tuyên huấn TPHCM Dương Đình Thảo thì khẳng định rằng: “Bây giờ nó có những cái chuyển biến là không lường trước được”. Các vì vua hôn ám thời nay cũng chưa chắc đã thấy ra tác dụng ngược của những mô hình chính sách tuyên dương nếp sống phi pháp hiện giờ. Hãy dẹp ngay bức tường vô năng vô hiệu đó để mọi người cùng sống ngay thẳng với nhau. Hãy dẹp ngay tường lửa để dọn đường hòa nhập cùng thế giới văn minh, trước khi gia nhập WTO. Hãy dẹp ngay tường lửa để các xa lộ thông tin có cơ thắp sáng trí tuệ của toàn thể nhân dân VN.

Canh Tân Con Người Trong Tiến Trình Xây Dựng Đất Nước (CT4)


Trần Thiên Ân


Phần một: Canh Tân Con Người trong Lịch Sử Việt Nam Cận Đại


Sự thua kém quá xa của Việt Nam so với Pháp và sự thất bại của quân ta trước lực lượng Pháp vào thế kỷ thứ 19 đã làm ông Nguyễn Trường Tộ dâng sớ lên triều đình xin canh tân, học hỏi người ngoài để đất nước có thể phát triển và tồn tại. Ông cũng đề nghị những phương cách để thu hồi tự chủ. Đề nghị này đã bị bác. Vì tinh thần cổ hủ của vua quan cũng có, nhưng cũng vì mối lo sợ bị nô lệ hoàn toàn khi đối tượng chính để học hỏi là Pháp, một nước đang thôn tính và chiến thắng nước ta. Ngoài ra, ông Nguyễn Trường Tộ là người “khó có thể tin được”, bởi triều đình thời đó. Vì ông theo đạo Thiên chúa và được các giáo sĩ Pháp bảo trợ cho đi Pháp du học, từng làm thông ngôn cho các đô đốc hải quân Pháp. Cho nên kế hoạch canh tân của người Thiên chúa giáo yêu nước này đã bị vất bỏ.

Sau khi Pháp hoàn toàn làm chủ nước ta, vì sự thất bại của các phong trào Cần Vương, các nhà yêu nước đã bừng tỉnh thấy rằng không thể nào đấu tranh giành độc lập nếu trình độ khoa học kỹ thuật quá thấp kém. Hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã là những người cổ võ tinh thần cầu học đổi mới. Năm 1904, cụ Phan Bội Châu bí mật lập Duy Tân Hội. Hai cụ Phan đã sát cánh với nhau, tán thành việc phổ biến một nền giáo dục phổ thông bằng cách dùng chữ quốc ngữ, kêu gọi thành lập các hội đoàn để phát triển thương mại, thủ công và kỹ nghệ bản xứ, đồng thời mở các lớp học trong công xưởng. Từ năm 1906, tổ chức ngầm những cuộc du học sang Nhật (phong trào Đông Du). Năm 1907 Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập tại Hà Nội, dùng chữ quốc ngữ để dạy học trò những kiến thức mới. Các thầy giáo tự bỏ bộ quần áo cổ truyền bằng lụa Tàu mà mặc âu phục, bỏ búi tóc mà cắt tóc ngắn theo kiểu Tây. Cụ Phan Bội Châu tiếp tục theo chế độ quân chủ, quay sang Nhật là nước đã canh tân thành công để học hỏi và tìm đồng minh. Cụ Phan Chu Trinh dè dặt cho rằng chủ trương dùng Nhật đuổi Pháp là nguy hiểm. Vì "một khi quân Nhật vào thì có thể sẽ khó mà đuổi họ ra". Sau khi Nhật ký hiệp ước thương mại với Pháp, trục xuất cụ Phan Bội Châu và các du học sinh ra khỏi Nhật năm 1909, thì cụ Phan chu Trinh không còn cùng hướng hoạt động với cụ Phan Bội Châu nữa. Sang Tàu ở, cụ Phan Bội Châu tiếp tục con đường đấu tranh võ trang. Nhiều du học sinh theo cụ được gửi vào học trường võ bị Hoàng Phố. Cụ Phan Chu Trinh ở Việt Nam theo hướng xây dựng một nước cộng hòa, chống triều đình tham nhũng thối nát, đấu tranh ôn hòa với người Pháp, đòi họ phải thực thi các điều cao đẹp của khẩu hiệu chính trị "Khai Hóa Việt Nam".

Trong nỗ lực kêu gọi đổi mới đất nước, cụ Phan Chu Trinh đã nhận ra một cản trở quan trọng là cái ì tính của quần chúng. Đây là phản ảnh tâm thức của một xã hội nông nghiệp không muốn thay đổi, không có tinh thần mạo hiểm và là phản ảnh đặc tính của đa số quần chúng, nói chung ngại sự bất ổn. Vì thế mà cụ Phan đã phải đưa ra những khẩu hiệu và phong trào vận động quần chúng cắt tóc, thay đổi y phục. Các thầy gíáo dạy ở Đông Kinh Nghĩa Thục đã cắt tóc và mặc âu phục để làm gương là vì như vậy. Những vận động đổi mới này đã được tiếp tục trong các sách báo quốc ngữ, nhưng với những xu hướng chính trị khác nhau. Tạp Chí Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương là của các người đổi mới trên tinh thần hợp tác với Tây và triều đình. Các báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đổi mới trong cách sống, thiên về hướng đấu tranh v.v...

Một nhân vật đặc biệt ngoài hai cụ Phan là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh. Ông Hồ là người thành công trong khi tất cả những nhà yêu nước khác đều thất bại. Tại sao ông Hồ đặc biệt? Trong lá thư gửi cho tổng thống cộng hòa Pháp ngày 15 tháng 9 năm 1911 để xin vào học trường thuộc địa, khi làm phụ bếp trên tàu Latouche Trevilliers, ông Hồ ký tên là Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1892, con ông phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bày tỏ ý muốn đổi mới như sau: "Tôi hoàn toàn không có nguồn kiếm sống và rất ham học hỏi. Tôi ước mong trở thành hữu ích cho nước Pháp trước đồng bào tôi và cũng đồng thời muốn cho đồng bào tôi được hưởng những lợi ích mà học vấn đem lại". (Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m'instruire. Je desirerais devenir utile à la France vìs a vìs de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter les bienfaits de l'instruction)". Lá thư đã bị vất xó. Sau đó ông Hồ đã làm các nghề mọn kiếm sống ở Pháp và liên lạc hoạt động với nhóm cụ Phan Chu Trinh, dầu ông ít tuổi hơn nhiều. Qua thư này có thể nói rằng ông Hồ mới đầu có ước vọng làm quan cho Pháp để giáo hóa dân. Tương tự như nhóm Phạm Quỳnh. Việc không thành, đưa đẩy ông vào đảng Cộng sản Pháp và đã nói lên con đường đổi mới dân tộc bằng câu sau đây "Luận cương của Lenin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi trong buồng một mình mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Tóm tắt, ông Hồ chủ trương canh tân con người Việt Nam bằng chủ nghĩa Cộng sản. Nói khác đi là thay thế những quan điểm văn hóa cổ truyền tam giáo Khổng-Lão-Phật lâu đời và những tư tưởng tự do dân chủ Tây phương mới du nhập, bằng quan điểm Mác Lenin Stalin, Mao Trạch Đông mà hình ảnh được trưng bày một cách tôn kính trong các dịp lễ hội. Sau khi chiếm được chính quyền năm 1945, ông Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh sự đổi mới tóm gọn bằng khẩu hiệu "xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa". Trên lý thuyết đã có nhiều giải thích các đặc tính con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế đã có những biện pháp nghiêm khắc để đào tạo con người này. Nhưng sau trên nửa thế kỷ xây dựng thì khẩu hiệu "xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" của ông Hồ vẫn còn đang được nhắc lại.

Vì thế không thể chối bỏ được rằng canh tân con người vẫn là yêu cầu ngày hôm nay của dân tộc Việt Nam.

Trong số tới, xin mời các bạn đón xem phần hai: Canh Tân Con Người trong Hoàn Cảnh Việt Nam Hiện Tại.

Singapore và Bài Học Phát Triển (CT4)


Vũ Thạch

Đối với nhiều ngưòi, Singapore đồng nghĩa với Lý Quang Diệu, người sáng lập đảo quốc này và thực chất vẫn nắm quyền cai trị tối hậu tại đây. Trong lúc Singapore được hâm mộ vì chỉ trong 4 thập niên đã vươn lên hàng Tứ Hổ Châu Á, thì ông Lý Quang Diệu được đón rước như bậc thầy tại Bắc Kinh và Hà Nội, nhờ thành tích quản trị khắt khe mà xã hội vẫn giàu lên. Chúng ta thử tìm hiểu sâu hơn xem người Việt nên bắt đầu từ bài học nào và làm sao áp dụng.

Singapore là một đảo quốc nằm ở tận cùng phía Nam của Mã Lai, diện tích vỏn vẹn 640 cây số vuông (tương đương với đảo Phú Quốc). Sau nhiều cuộc đụng độ chủng tộc đẫm máu, Singapore chính thức tách ra khỏi Mã Lai thành một nước độc lập vào năm 1965 với dân số khoảng 2 triệu người. Đa phần là người gốc Hoa. Ngay từ lúc thành lập, Singapore phải đối diện với nhiều mối nguy sinh tử. Anh Quốc rút dần lực lượng bảo vệ về nước. Mã Lai và Indonesia liên tục đe dọa nền tự chủ. Xung đột chủng tộc và tôn giáo lúc nào cũng có thể bộc phát. Nguy hiểm nhất là nỗ lực của đảng cộng sản tìm mọi cách tạo bất ổn để lật đổ chính quyền. Trong nhu cầu sống còn, chính phủ Lý Quang Diệu bắt buộc phải xiết chặt xã hội và nắm mọi cửa ngõ kinh tế. Một trong những nỗ lực chính yếu đầu tiên là loại trừ đảng Barisan Xã Hội Chủ Nghĩa và đảng Cộng Sản Mã Lai (đang nhận lệnh và tài trợ từ Bắc Kinh nhằm lật đổ chính phủ để thiết lập nền chuyên chính vô sản) ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội. Nhưng quan trọng hơn cả là chính người dân Singapore biết rõ những mối đe dọa đang bao vây và đồng lòng ủng hộ các chính sách khắt khe của chính phủ.

Cùng với thành công trong nỗ lực ổn định xã hội, nền kinh tế Singapore cũng tăng vọt. Tổng sản lượng nội địa (GDP) theo đầu người tăng từ 400 USD năm 1965 lên 22.330 USD năm 2003. Tác nhân chính trong nền kinh tế Singapore là loại công ty có gạch nối với chính quyền. Đây không hẳn là loại công ty quốc doanh nhưng lại luôn theo sự định hướng của nhà nước và được hưởng nhiều nâng đỡ từ phía chính phủ. Những đại công ty này có mức tăng trưởng tương đối chậm và mức độ chấp nhận rủi ro thấp. Thành phần các công ty tư nhân nhỏ và hoàn toàn độc lập không được chính phủ lưu tâm khuyến khích. Nói cách khác, nhà nước không ngăn cấm nhưng không khuyến khích các sinh hoạt kinh tế ngoài định hướng.

Về mặt xã hội, giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu. Quyết định dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính trong trường học thay vì tiếng Hoa cho thấy tính thực dụng của chính phủ. Hầu hết các dịch vụ liên quan đến đời sống người dân đều được chính phủ cung cấp gần như miễn phí. Tuy vậy, các sinh hoạt xã hội, đặc biệt là các sinh hoạt có hơi hướm chính trị đều bị kiểm soát chặt chẽ. Cho đến nay báo chí vẫn bị cấm không được bình phẩm hay đăng các tin không thuận lợi về chính phủ hay lãnh đạo. Mọi cuộc tụ họp chính trị không được tổ chức ngoài trời. Và hiện nay, quốc hội chỉ có 2 dân biểu được xem là đối lập.

Về hệ thống cai trị, ông Lý Quang Diệu giữ ghế thủ tướng từ 1965, ông Ngô Tác Đống từ 1990 và con trai ông Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long từ ngày 12/8/2004. Cả ba thuộc đảng Nhân Dân Hành Động (PAP) và hiện đều đang ngồi trong nội các. Nói chung, chính quyền Singapore sẽ tiếp tục chính sách bảo thủ trong các vấn đề xã hội, kinh tế và không chấp nhận sự cạnh tranh chính trị với đảng cầm quyền. Dân chúng đa phần không biết nhiều về các nhân vật lãnh đạo hay những tính toán, vận hành lớn đằng sau chính trường.

Nhìn kỹ vào cách vận hành chính trị tại Singapore cho thấy thực chất chế độ tại đây là một triều đại phong kiến với một vị minh quân biết chăm lo cho dân cho nước, một người cha nghiêm khắc nhưng lo liệu mọi bề, kể cả quyết định tương lai cho con cái. Điều hiển nhiên mà mọi người phải công nhận là chính mô thức cai trị này đã đưa Singapore vượt qua giai đoạn hiểm nghèo ban đầu. Nó có khả năng tập trung sức lực quốc gia vào một số mục tiêu giới hạn và đạt tới những mục tiêu đó khá nhanh chóng. Ngoài ra, với những dịch vụ xã hội dồi dào từ chính phủ, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội tương đối thấp. Với một guồng máy trong sạch tối thiểu, mô thức này đã chứng tỏ mức hiệu quả không thể chối cãi, ít ra là cho đến nay.

Câu hỏi được đặt ra là mô thức này sẽ đưa Singapore đi bao xa nữa. Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan đều áp dụng công thức này trước Singapore, đều đã nhận ra các nhược điểm trầm trọng của nó, và đều phải cải tổ. Trước hết về kinh tế, có hẳn đây là công thức phát triển kinh tế tối hảo chăng? Hồng Kông là phần đất có quá trình lịch sử, đặc tính địa dư và dân số rất gần với Singapore. Tuy nhiên Hồng Kông mở rộng chính sách kinh tế tự do cho mọi thành phần. Kết quả là mặc dù động lượng phát triển đã giảm sút trong những năm gần đây, GDP của Hồng Kông hiện tại vẫn gấp đôi Singapore. Một nhược điểm nghiêm trọng khác là cách quyết định sau hậu trường và các móc ngoặc giữa nhà nước và các đại công ty đã sản sinh những ung thối tham nhũng tràn lan. Cả Nhật Bản và Nam Hàn đều phải truy tố và thay thế 4, 5 vị thủ tướng liên tiếp trong nhiều năm vì có thành tích tham nhũng. Hiện tượng này chưa hiện lên tại Singapore chỉ vì tại đây chưa có cánh đối lập, chưa có truyền thông độc lập và ảnh hưởng của Lý Quang Diệu vẫn còn. Nhược điểm khác là mục tiêu của chính quyền không còn là mục tiêu của dân chúng nữa trong tiến trình phát triển chung. Nói cách khác, khi giai đoạn khó khăn đã qua, lý do duy trì một chế độ hà khắc để vượt qua hiểm nguy không còn nữa mà chỉ để duy trì chế độ, thì người dân không có một cơ chế hợp pháp để thay thế chính phủ trong hòa bình và ổn định.

Tóm lại, mặc dù mang đầy đủ dáng vẻ của một nền cộng hòa, ngay từ cốt lõi, Singapore vẫn chủ trương dựa vào một cá nhân, một minh quân thay vì dựa vào một cơ chế của một nước dân chủ. Vấn đề là (1) làm sao bảo đảm được người lãnh đạo là một minh quân; và (2) cho dù có được minh quân vẫn không đương nhiên có chính quyền tốt; nhưng (3) quan trọng nhất là nếu người lên cai trị là bạo chúa và/hoặc chính phủ của ông bất lực thì làm sao để thay thế họ.

Trong lúc nhân loại đã thấy ra sự giới hạn của chế độ phong kiến và tiến lên chế độ dân chủ, thì Singapore và một vài nước châu Á khác vẫn muốn dừng lại ở chế độ cai trị bởi những nhà vua mặc áo cộng hòa và biết dùng máy vi tính.

Tại sao phải bảo vệ môi sinh (CT4)


Thế nào là môi sinh. Tại sao phải bảo vệ môi sinh và những ai có nhiệm vụ bảo vệ môi sinh Việt Nam

Hoàng Quân


Ngược dòng lịch sử nước ta từ bao nhiêu thế kỷ qua, người Việt chỉ quen thuộc với những câu như: bảo vệ giang sơn bờ cõi, bảo vệ Tổ Quốc, tranh đấu cho độc lập, tự do cho Dân Tộc v.v... Hai chữ "Môi sinh" hay "Môi trường" tuyệt nhiên không thấy xuất hiện trong tài liệu hay sách báo nước ta cách đây 30 năm. Vậy thì môi sinh là cái gì, môi sinh trở nên một vấn đề quan trọng từ hồi nào và tại sao? Câu trả lời đơn giản là: Môi sinh là môi trường chúng ta sinh sống; Môi sinh bị đe dọa từ khi khả năng ảnh hưởng của con người lên môi trường sống gia tăng vượt bực và sự thay đổi của môi sinh, do con người tạo ra, sẽ ảnh hưởng quan trọng ngược lại lên đời sống của chúng ta, bây giờ và trong tương lai lâu dài.


Khoảng 50 năm về trước, ảnh hưởng đáng kể lên môi sinh chỉ có nạn đốt rừng làm rẫy của các dân tộc miền núi. Vấn đề này hệ trọng vì hoa mầu được trồng không đủ khả năng giữ lại đất mầu vì vậy nhiều vùng đồi núi dần dần không còn cây mọc nữa, nước mưa không có môi trường giữ lại đã tạo nên những trận lụt chấp nhoáng, dữ dội ... Trong thời chiến tranh, bom đạn cũng đã làm cho nhiều cánh rừng bị cháy với hậu quả tương tự... Rồi tới việc sử dụng thuốc khai quang đã khiến cho rừng càng bị phá hủy trầm trọng.

Vào năm 1975, khi hòa bình trở lại, tưởng rằng thiên nhiên có điều kiện phục hồi, nhưng chính sách tập trung cải tạo các sĩ quan và cán bộ của chế độ cũ, đồng thời với việc đưa dân thành thị đi lập các vùng kinh tế mới đã huy động một khối dân khổng lồ vào việc phá rừng bừa bãi. Một trong những hậu quả rõ rệt tồn đọng tới nay là việc đào kinh thủy lợi một cách vô tổ chức tại đồng bằng Miền Nam Việt Nam. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới các trận lụt xẩy ra thường xuyên tại đồng bằng Sông Cửu Long những năm gần đây .

Tóm lại, lý do đầu tiên của việc phá hủy môi sinh là chính sách của Nhà Nước không coi trọng việc bảo vệ môi sinh đồng thời lại có quá nhiều quyền hạn để huy động sức lao động của dân chúng trong các sinh hoạt nguy hại này.

Lý do quan trọng thứ nhì đã đe dọa và phá hủy môi sinh VN là sự thay đổi của nếp sống dân ta, đặc biệt tại các đô thị. Trong vòng 20 năm qua, việc sử dụng dầu khí cho nhu cầu di chuyển đã tăng vọt, khói xe và bụi đường đã làm thay đổi toàn diện bộ mặt các thành phố. Bên cạnh đó là sự xuất hiện nhiều ngành sản xuất công nghệ trước đây không có. Tình trạng ô nhiễm môi trường thể hiện qua việc tháo đổ các chất phế thải công nghệ và thành phố ra các dòng sông, đồng ruộng và bầu không khí đang ảnh hưởng trầm trọng lên đời sống của nhân dân. Hiện nay chúng ta chưa có được con số thống kê về số tử vong do các chứng bệnh về viêm đường phổi tại các đô thị lớn và các bệnh do phế liệu hóa học tại các vùng dân cư bao quanh các cơ sở sản xuất lớn nhỏ, nhưng hình ảnh vô số người dân phải mang khẩu trang khi có việc phải di chuyển ngoài đường là một chỉ dấu báo động vì có biết bao nhiêu người khác không có khẩu trang, mà ngay như khẩu trang cũng chỉ ngăn được bụi mà thôi.

Lý do quan trọng thứ ba đe dọa môi sinh VN là sự thay đổi trong các phương pháp canh tác trong nông , ngư nghiệp. Để gia tăng năng xuất, nông dân đã sử dụng rất nhiều chất bón hóa học và các hóa chất trừ sâu. Vì không nắm vững và không được hướng dẫn về kỹ thuật, nhiều khi lượng hoá chất sử dụng đã nhiều từ 5 tới 10 lần hơn lượng cần thiết, gây nên nạn ô nhiễm môi trường và ô nhiễm nguồn nước ngầm trầm trọng. Phong trào phá rừng để làm đồn điền trồng một số cây kỹ nghệ hoặc làm trại nuôi tôm, nhất là để nuôi tôm, đã biến nhiều diện tích rừng quý giá, và cả một số ruộng lúa, thành những vùng đất bỏ hoang không sản xuất hay canh tác được .

Môi sinh là môi trường chúng ta sinh sống. Bảo vệ môi trường chúng ta đang sinh sống là chuyện đương nhiên. Tuy vậy những chuyện đương nhiên này đã không được thực hiện vì tình trạng thiếu hiểu biết, ích kỷ hay vô trách nhiệm của nhiều người. Bảo vệ môi sinh là nhiệm vụ của cả chính quyền lẫn người dân. Tuy nhiên trên tờ báo Canh Tân này, chúng tôi muốn đề cập nhiều hơn tới vai trò của người dân hơn là của chính quyền dù rằng đây chính là những người có trách nhiệm giải quyết hay chính là những thủ phạm đã gây nên những tàn phá môi sinh.

Vấn đề trước mắt của dân ta hiện nay là phải ý thức được hiểm họa của vấn đề tàn phá hay ô nhiễm môi trường sống của chính chúng ta. Làm sao mọi người cùng quan tâm tới môi sinh, thường xuyên cố gắng theo dõi và hiểu biết tình trạng vi phạm hay các nỗ lực bảo vệ môi sinh đang diễn ra tại các nơi trên đất nước. Sự quan tâm này chính là tâm thức, phong cách của những ai muốn và dám làm chủ đất nước. Đây cũng là một thái độ cần có để xây dựng sinh hoạt dân chủ trong các lãnh vực khác hơn là môi sinh.

Bên cạnh sự quan tâm, cũng cần phải có nỗ lực thi hành những công tác từ nhỏ tới lớn để bảo vệ môi sinh một cách cụ thể. Muốn thi hành công tác, dầu là nhỏ, cũng cần tìm cách tạo sự hợp tác giữa một số người và thông tin cho nhau để trao đổi sáng kiến, kinh nghiệm. Việc tìm hiểu và thông tin là những bước đầu để đối phó với một vấn nạn về môi sinh tại một địa phương. Đừng quên là tai họa môi sinh tại một địa phương nhiều khi phát xuất từ thượng nguồn dòng sông chẩy qua đó, từ một dẫy núi ở xa hay từ nhà máy tại một thành phố kế cận.

Để đối phó với nguy cơ về môi sinh, sẽ cần sự hợp tác của người dân tại các địa phương khác nhau, nhiều khi vượt ra ngoài cả biên giới quốc gia. Riêng đối với Việt Nam, chúng ta sẽ cố gắng để làm sao, trong việc bảo vệ môi sinh Việt Nam, chúng ta sẽ có sự chung sức của đồng bào cả ở trong và ngoài nước.