05 tháng 11, 2005

Hệ Thống Tội Ác Có Tổ Chức (CT18)

Thạch Hãn


Lịch sử thế giới từng nhiều lần biện biệt: Công hôm nay có thể biến thành tội ngày mai, hay, công cho một nhóm nhỏ lại là tội đối với một đại khối triệu triệu người. Chủ nghĩa cộng sản có công hay tội với nhân loại? Câu trả lời hôm nay có thể còn tùy phía mà khác nhau nhiều ít. Duy một điều mọi người có thể nhất trí với nhau: Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất đi từ tư bản chủ nghĩa tới tư bản chủ nghĩa. [1] Dài nhất, và đúc bằng nhiều xác người nhất. Chết đạn lẫn chết đói. Lý do? Dọc đường kách mệnh, lãnh tụ đảng đã trở thành hoàng đế kiêm giáo chủ, nghĩa là quyết định sự sống chết không những của thân xác mà cả linh hồn của con người [2]. Thê thảm hơn nữa, ở cuối đường kách mệnh, người người hỏi nhau: Đâu rồi trống Xô-Viết? Đâu rồi cờ búa liềm? Đâu nào cơm no áo ấm? Đâu nào dân chủ tự do? Con thuyền lịch sử cận đại VN chở đầy khẳm nỗi bất hạnh vĩ đại chưa từng của dân tộc, mệnh danh Độc Lập - Thống Nhất. 30 tháng Tư. Đầy túi hay trắng tay? Vinh quang hay căm thù? Chiến thắng hay đồi bại? Thống nhất hay phân ly? Hòa bình hay chiến tranh nối tiếp?... Mỗi mắt một góc nhìn. Đan chéo nhau những mục tiêu viễn mơ với cái đói trước mặt. Xen kẽ nhau những dày xéo chính chuyên với câm nín đọa đày. Rối bời nhau những vàng thoi rượu ngoại với máu xương nước mắt. Đừng tiếp tục dựa vào mớ công trạng chưa được lịch sử phân định để tự tiện hành quyết vận mạng đất nước hôm nay và di hại tàn khốc về sau cho hàng chục triệu đồng bào. Giờ đây hắc bạch phân minh. Thế là rõ, cái dấu ấn biện biệt của thời gian. Thế là rõ, cái góc nhìn xoáy buốt của sự thật.

*


Đừng đánh trẻ nít chỉ vì chúng làm sai những việc rất nhỏ, khi mà ta chưa dám phản đối lãnh đạo đảng và nhà nước làm sai những việc động trời. Với những sai lầm nhỏ nhặt, trẻ nít đáng được khoan dung tha thứ. Trẻ nít thường không tự biết mình dốt. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà cứ nhân danh tuổi trẻ là được khoan thứ. Bởi ngay chính tuổi trẻ đã không thể ỷ lại vào sự khoan thứ để tiếp tục làm sai.

Càng khó khoan thứ hơn ngàn lần đối với những lão già nhân danh đảng để Chung Thân Làm Sai và di hại nhiều đời cho cả nước. Bởi những bộ óc xơ cứng đó không thể nào vừa tự phong là đỉnh cao trí tuệ, lại vừa bảo là không tự biết mình đã dốt còn tham. Không thể nào: Bảy chục còn nghi tuổi mới ba [3]. Cái ngu dốt vì kém hiểu biết tự nó không nguy hiểm là bao. Những tác hại trầm trọng bắt nguồn từ sự ngu dốt vì tư duy chật hẹp khi nắm quyền lực trong tay, đi kèm với lòng tham chỉ muốn mỗi mình được tất.

Tuổi trẻ không nhận ra sai lầm vì bất trí.
Tuổi già không nhìn nhận sai lầm là bất lương.

Cải Cách Ruộng Đất là cái sai không thể khoan thứ. Nhân Văn-Giai Phẩm là cái sai không thể khoan thứ. Xét Lại - Chống Đảng là cái sai không thể khoan thứ. Giết dân trong suốt ba cuộc chiến khốc liệt vừa qua để tiếp tục giết dân trong mấy mươi năm thống nhất là cái sai không thể khoan thứ. Chánh sách trù dập trí thức, chánh sách tem phiếu hộ khẩu, chánh sách giam người tùy tiện, chánh sách tập trung cải tạo, chánh sách giáo dục rô-bô-hóa quần chúng, chánh sách y tế xuyên tâm liên, chánh sách xã hội bán máu đổi gạo-bới rác đổi rau, chánh sách văn hóa nô dịch tận diệt tính tình người, chánh sách thông tin bưng bít một chiều, chánh sách ngoại giao ăn mày khấu tấu, chánh sách đổi tiền đánh sập tư sản công thương nghiệp miền Nam, chánh sách đày dân lên rừng làm kinh tế mới-đuổi dân ra biển tìm tự do-hay đẩy dân đi làm lao nô nước ngoài để trả nợ chiến phí v.v... đều là những cái sai không thể khoan thứ.

Hàng triệu người Việt Nam đã chết hay chịu thương tật vì những cái sai đó. Hàng chục triệu người Việt Nam đã và đang bị bức khổ triền miên vì những cái sai đó. Dân tộc Việt Nam đã bị chia lìa, phân hóa, hận thù, thui chột, vì những cái sai đó. Đất nước Việt Nam đã rơi vào hố sâu lạc hậu, đói nghèo, ký sinh, cũng vì những cái sai đó.

Đó không chỉ thuần là những cái sai.
Đó là Hệ Thống Tội Ác Có Tổ Chức.

Số phận của dân tộc là tập hợp số phận của mỗi cá nhân. Muốn giải quyết cái to, phải khởi sự bằng những giải quyết riêng từng cái nhỏ. Số phận chỉ thực sự khắc nghiệt khi ta coi đó là điểm cuối của cuộc đời. Chính sự an phận là tròng áp bức đầu tiên nơi mỗi con người. Im lặng nuôi dưỡng áp bức [4]. Nên chi, nếu mỗi cá nhân quyết không buông xuôi đời mình cho số phận, cả nước sẽ có cơ xây dựng lại Việt Nam. Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh. Định mệnh là đối thủ tiến công [5]

Đình công, bãi thị, biểu tình... Công nhân, tiểu thương, nông dân đang vung tay thách đố với số phận. Kiến nghị, thư ngỏ, báo chui.... Trí thức, nhà văn, đảng viên đang chấm mực vẽ lại chân dung số phận. Thẻ đảng trả về cho đảng. Con người đòi quyền làm người. Người bước ra đường. Chữ nghĩa đã biến thành nắm tay. Hờn căm đã biến thành sức mạnh rào làng, quăng cán bộ xuống giếng. Phẫn uất biến thành ngọn lửa. Niềm tin đã biến thành biểu ngữ gìn vườn giữ ruộng: Một cây chàm bị đốn là một mạng người ngã theo! Đi tới thắng lợi, xin cầu chúc bạn, cầu chúc tất cả chúng ta... [6]

Chú Thích: [1] Lech Walesa; [2] Nguyễn Đình Thi dẫn lời Nguyễn Văn Linh; [3] Cao Bá Quát; [4] Francois Mitterand; [5] Lý Phương Liên; [6] Vũ Kim Hạnh.

Sống Can Đảm vì Mục Tiêu Dân Chủ (CT18)

Cành Nam



‘Càng gần đến mục đích, càng nhiều khó khăn; nhưng ta hãy tiến bước như các vì sao, tiến bước bình tĩnh, không vội vàng, nhưng liên tục, lúc nào cũng hướng tới mục đích đã định’. (Khuyết danh)

Trong số báo trước, bài ‘Can Đảm Sống và Sống Can Đảm’, chúng ta đã cùng nhau lượng định sức mạnh của một chế độ độc tài đến từ đâu, và những nguồn thế lực này sẽ vì đâu mà tê liệt. Chúng ta cũng duyệt qua những phương thức đấu tranh đã được thế giới áp dụng trong lịch sử nhân loại để lật đổ ách độc tài. Chúng ta cũng phân tích lợi, hại, những yếu tố liên hệ, và phó sản của từng hình thức đấu tranh đối với tương lai đường dài của đất nước. Chúng ta cũng đã lược qua những nhược điểm của chế độ để biết đâu là tử huyệt để đánh đúng chỗ, hầu đưa cuộc tranh đấu giành tự do dân chủ đến thành công. Chúng ta cũng đã nhận định rằng đối kháng bằng quân sự là không đánh đúng vào điểm yếu nhất của chế độ độc tài mà chính là chọn cách đương đầu với thế mạnh nhất của họ, với vô số tổn thất có thể lường được trước. Từ đó, chúng ta đã nhận định rằng để giảm thiểu tối đa tổn thất, và để có điều kiện tập trung sức mạnh quần chúng, hướng vào nhiều lãnh vực đấu tranh đa dạng, phương thức hữu hiệu nhất là đấu tranh bất bạo động.

Trong bài này, chúng ta sẽ xét xem sức mạnh của lực lượng dân chủ chúng ta đến từ đâu. Những hình thức đấu tranh bất bạo động nào khả dĩ làm suy yếu chế độ, và làm thế nào để tận dụng và tổng hợp sức mạnh quần chúng vào cuộc đối kháng ôn hòa một cách hiệu quả.

I. Sức Mạnh của Lực Lượng Dân Chủ:

Nếu phản kháng bằng quân sự với vũ khí là súng, đạn, bom v.v., thì phương tiện tấn công của đấu tranh ôn hòa là sức mạnh quần chúng, là các định chế xã hội trong nhiều lãnh vực cấu tạo nên quốc gia như kinh tế, chính trị, y tế, giáo dục, tôn giáo v.v. Do đó, sức mạnh của lực lượng dân chủ nằm ở sức mạnh của khối quần chúng bị áp bức. Sức mạnh này nhiều hay ít do ở sự quyết tâm, lòng tự tin, và cách thức kháng cự của quần chúng. Ngoài ra, sức mạnh của lực lượng dân chủ còn nằm ở số lượng những đoàn thể xã hội độc lập. Nếu quần chúng chỉ là những cá nhân riêng lẻ thì sẽ không có số đông cần thiết để tạo sức xoay chuyển. Cũng vì thế, các chế độ độc tài đều chú tâm tiêu diệt các định chế xã hội ‘ngoài luồng’, và tập trung dân chúng vào những định chế, đoàn thể trong tầm kiểm soát của chế độ. Do đó, các lực lượng dân chủ cần nhìn ra vị trí chủ yếu của các đoàn thể, định chế xã hội cần phải có để nỗ lực tái dựng lại (nếu đã bị chế độ hủy diệt trước đó), hầu đoàn ngũ hóa quần chúng, tăng cường sức mạnh của mình.

II. Những Hình Thức Phản Kháng Bất Bạo Động:

Một chế độ độc tài chỉ có thể tồn tại nếu quần chúng tin tưởng vào lãnh đạo, và tiếp tục hợp tác, phục tùng chế độ. Một khi người dân ý thức được điều then chốt này, rằng chính người dân mới là lực lượng nắm trong tay quyền kiểm soát bình dưỡng khí của chế độ, thì việc chấm dứt một thiểu số đang cai trị là việc làm khả thi. Chỉ cần quần chúng khởi từ ý thức rõ rệt quyền làm chủ thực sự của mình, để từ đó, tùy vào cơ hội và điều kiện có được, để mỗi lúc, tắt dần liều lượng khí thở tiếp dưỡng cho chế độ, cho đến khi tắt hẳn nguồn sinh khí chế độ cần phải có, và cuối cùng là chấm dứt chế độ.

Việc quần chúng cắt nguồn dưỡng khí của chế độ có thể diễn ra qua ba hình thức: (1) Can thiệp, (2) Bất hợp tác và (3) Phản đối / Thuyết Phục. Thông thường, người ta cho rằng chỉ có thể áp dụng hai phương pháp đình công và biểu tình số đông khi đấu tranh bất bạo động; tức là hình thức phản đối. Thực ra, trong phản kháng chính trị ôn hòa, các nhà tranh đấu có thể áp dụng cả ba hình thức, từ thấp đến cao để huy động quần chúng đấu tranh qua nhiều phương thức từ tập trung số đông, biểu dương lực lượng ồn ào mang tính biểu kiến đến âm thầm phân tán, bí mật trải rộng hoặc khoanh vùng một số địa điểm ‘có tính chiến lược’ cho những kế sách lâu dài, ‘mưa dầm thấm đất’, nằm trong một kế hoạch chiến lược sáng suốt.

Trong ba hình thức phản kháng trên, loại phản đối, thuyết phục được tiến hành dưới dạng những cuộc biểu tình, diễn hành với số lượng người tham gia đông đảo, hoặc tán phát truyền đơn, diễn văn, thư phản đối, kiến nghị, tuyên ngôn, thỉnh nguyện thư tập thể, báo chui, tập dượt bầu cử (giả), hành hương, đêm không ngủ, tang lễ chính trị, tụ tập phản đối v.v....

Loại hình thức bất hợp tác có thể diễn ra trong nhiều lãnh vực chuyên biệt nhưng gây nhiều tác động lên chế độ nhất thì gồm có bất hợp tác xã hội, bất hợp tác kinh tế và bất hợp tác chính trị. Vài thí dụ về hình thức Bất hợp tác xã hội như tẩy chay các ngày lễ hội, các sinh hoạt giao tế của nhà nước, bất tuân tập thể các lề thói thông lệ xã hội do nhà nước đặt ra, rút lui khỏi các định chế xã hội, hô hào quần chúng bỏ đi vùng khác để gây nên tình trạng thiếu nhân công, tiêu thổ tập thể, sinh viên ngưng tham gia các sinh hoạt thể thao, xã hội, văn nghệ v.v. Bất hợp tác kinh tế gồm tẩy chay tiêu thụ hàng hoặc dịch vụ của một công ty quốc doanh nhà nước, hay một quốc gia đang có hành vi đàn áp nhân dân VN, tẩy chay một công ty môi giới không bảo vệ quyền lợi người dân, tự bãi công, đình công phản đối, bãi thị hàng loạt, bỏ ngang công việc, nông dân đình công, đình công liên đới giữa các ngành sản xuất, vận tải, và nhiều ngành kỹ nghệ cùng lúc. Bất hợp tác chính trị gồm hình thức phủ nhận chính quyền hay một chính sách nào đó của nhà nước, tẩy chay các lễ hội của nhà nước, tẩy chay các cuộc bầu cử, tẩy chay ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp, tẩy chay các tổ chức, cơ quan ngoại vi của chế độ, tẩy chay các luật lệ bất chính, trì hoãn và cản trở các nhân viên nhà nước, ngồi vạ hoặc từ chối tụ tập xiển dương nhà nước v.v....

Loại thái độ can thiệp bất bạo động có thể diễn ra trong phạm trù tâm lý, thí dụ như tuyệt thực, tự hứng khổ nạn, tự thiêu v.v. Trong phạm trù xã hội, vài hình thức can thiệp có thể kể đến việc tạo dựng các cơ chế xã hội khác để thay thế, cản trở diễn đàn thông tin của nhà nước, gây quá tải cho các cơ quan xã hội, hay tập thể tự quy định khuôn khổ xã hội mới v.v.... Vài thí dụ về can thiệp trong phạm trù kinh tế như in giấy bạc giả (vì động cơ chính trị), tạo lập thị trường khác thay thế, tạo lập hệ thống vận chuyển thay thế, xây dựng định chế kinh tế thay thế, làm tăng ca tối đa (ngược lại với đình công) v.v.... Và can thiệp về chính trị có thể là tiết lộ và tán phát danh tánh của công an, nhân viên chìm của nhà nước, hay gây quá tải hệ thống hành chánh, làm việc nhưng không cộng tác, hoặc tạo chủ quyền đối trọng và chính quyền song song v.v...

III. Tận Dụng Và Tổng Hợp Sức Mạnh Quần Chúng:

Những hình thức đấu tranh bất bạo động, dù trong những lãnh vực nào, căn bản vẫn là để đạt được mục tiêu chấm dứt ách độc tài để xây dựng dân chủ tự do đích thực. Do đó, những hình thức đấu tranh ôn hòa ở dạng chính trị vẫn phải là chủ yếu. Tuy thế, dù chọn lựa lãnh vực nào để khởi phát quần chúng đấu tranh, các nhà dân chủ đều cần bắt đầu từ chính mối quan tâm thiết thân của đa số quần chúng. Trong trường hợp dân chúng có nhiều ta thán trong lãnh vực kinh tế, hay xã hội, hoặc tôn giáo thì các hình thức đấu tranh tác động lên đúng những quan tâm đó của quần chúng sẽ có sự hưởng ứng tham gia đông đảo hơn; và vì thế sẽ là những phương pháp chống đối thích hợp nhằm thách đố và góp phần làm suy yếu quyền lực chế độ.

Một trong những trở ngại của lực lượng dân chủ là thuyết phục quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh chung. Nỗi sợ hãi bị chế độ đàn áp, trù dập và thói quen phục tùng khiến người dân ngại đứng lên tranh đấu. Phương thức phản kháng chính trị ôn hòa sẽ giúp cho quần chúng giảm đi nỗi sợ hãi và thói quen phục tùng cố hữu. Các nhà đấu tranh cho dân chủ thường lưu ý đến những hình thức đấu tranh uyển chuyển cần thiết để giúp người dân giảm bớt hoặc kềm chế được nỗi sợ hãi lúc ban đầu. Để giảm sự sợ hãi, quần chúng cần có thời gian làm quen với những hành động đấu tranh dễ làm, đơn giản, an toàn, mà thoạt nhìn vào, có thể không khác lắm với những thói quen, hành vi thường nhật. Thí dụ, thay vì tham gia tọa kháng rầm rộ, biểu kiến ngay, người dân có thể được cổ vũ làm những việc dễ như khi làm việc, cố ý ‘sai sót’ thay phiên nhau, hoặc cố ý làm việc chậm hơn một tí, hoặc đi làm trễ hơn một chút, hay cùng nhau lấy lý do bị đau ốm, hay ‘bị kẹt’ không đi làm được trong cùng 1 thời điểm. Người dân cũng có thể được kêu gọi tham dự các nghi lễ tôn giáo nào mang tính xác quyết lập trường chính trị, như một hình thức phản kháng chế độ âm thầm v.v...

Một yếu tố khác giúp cho nỗi sợ hãi giảm dần trong quần chúng đó là những nhà lãnh đạo quần chúng đấu tranh không thể để bị khiêu khích để phản ứng bạo động và tạo lý cớ cho chế độ đàn áp. Dĩ nhiên, dù nỗ lực tránh bạo động tối đa, nhưng đấu tranh ôn hòa vẫn có thể dẫn đến sự đàn áp không tránh khỏi của guồng máy công an bạo lực. Tuy thế, kinh nghiệm lịch sử cho thấy sự thiệt hại nhân mạng, hay bị thương tích trong cách phản kháng bất bạo động vẫn ít hơn là cách đấu tranh quân sự. Và chúng ta cần ghi nhớ yếu tố kỷ luật tự chế trong đấu tranh bất bạo động rất cần thiết để không rơi vào bẫy hay trận thế giăng sẵn của chế độ đương quyền.

Hầu thu hút và tổng hợp sức mạnh quần chúng, các nhà đấu tranh cho dân chủ giúp quần chúng đòi hỏi những nhu cầu thiết thân của họ với phương thức đấu tranh bất bạo động, bằng nhiều cách ôn hòa và đa dạng, trong khuôn khổ ‘cho phép’ hạn hẹp của chế độ, trong khi các phương thức đấu tranh khác không thể khai thác được hết. Ngoài tác dụng có thể đấu tranh một cách đa dạng trong nhiều lãnh vực, phương thức ôn hòa này còn giúp tranh thủ, thuyết phục, và tạo cơ hội cho nhiều thành phần quần chúng khác nhau có thể góp phần vào đấu tranh. Vì thành phần quần chúng nào cũng có thể tham gia tùy mức độ sẵn sàng và ý chí quyết tâm của họ. Trong ba thái độ từ can thiệp bất bạo động, đến bất hợp tác, đến phản đối chế độ, các nhà đấu tranh cho dân chủ đều có thể ứng dụng vào nhiều hình thức đấu tranh ôn hòa trong khắp mọi lãnh vực kinh tế, xã hội, tôn giáo, giáo dục, chính trị v.v. mà khối quần chúng đó quan tâm tuỳ thời điểm. Đây là thế đấu tranh toàn dân toàn diện hầu kết hợp sức mạnh tổng hòa của dân tộc.

Tạm Kết:

Khi quần chúng kềm chế hay giảm thiểu được sự sợ hãi để tham gia vào các hình thức bất hợp tác từ nhẹ nhàng, âm thầm, đến phản đối, thách đố, trực diện, là quyền lực của chế độ độc tài đang dần bị phá hủy. Khi quy tụ được sự tham gia của quần chúng, và liên minh, phối hợp được các định chế, đoàn thể xã hội ‘ngoài luồng’, là sức mạnh của lực lượng dân chủ đang dần gia tăng.

Chú thích: Tham khảo Tài liệu “From Dictatorship to Democracy’ của Gene Sharp

Lệ Đá (CT18)

Trần Nam Khoa


Ngày 31/10/2005 vừa qua, sự kiện Tượng Đức Mẹ Maria khóc đã chấn động nhiều người. Mặc dù công an thành phố ngăn cản và linh mục Huỳnh Công Minh "khuyên can", hàng ngày đã có rất đông người kéo nhau về đây chiêm bái, cầu nguyện.

Hiện tượng lạ này đã thu hút sự chú ý của đông đảo đồng bào ta, dù là lương hay giáo, vốn cũng có một lòng thành kính đối với Đức Mẹ Maria. Lòng thành kính này không phải mê tín dị đoan như những luận điệu của đảng và nhà nước, mà nó phát xuất từ niềm hy vọng, cậy trông vào một sự an ủi, phù trợ nào đến từ một người Mẹ thiêng liêng ở cõi Trời. Hiện tượng có một vệt trắng xuất phát từ khóe mắt bên phải của tượng Đức Mẹ, chảy dài xuống cằm như giòng nước mắt của người đang khóc, cần được làm sáng tỏ. Đó là lý do khiến Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài Gòn đã gửi một lá thư chung ngày 4/11/2005, thông báo sẽ thành lập "một ban có trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo về hiện tượng trên". Công việc "tìm hiểu, nghiên cứu" của ban này chưa khởi sự thì đảng và nhà nước đã tận tình giúp đỡ ủy ban với 2 xe bồn phun nước cố ý rửa sạch vệt trắng trên mặt tượng Đức Mẹ. Nhưng vệt "nước mắt" vẫn còn nguyên vẹn.

Còn nhớ, ít lâu sau khi bức tường Berlin bị phá sập, có một cô bé leo lên những bậc thang trước tiền đình Quốc Hội nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức cũ, lần theo mấy cây cột đó, lấy tay sờ lên những vết đạn của cuộc Thế Chiến Thứ Hai còn sót lại trên những phiến đá. Được hỏi, cô bé trả lời "Em đang hỏi chuyện những phiến đá này!". Cô bé nói: "Em hỏi đá là bị nhiều vết đạn như thế này, đá có đau không ? Đá không trả lời. Nhưng đá đã kể cho em nghe những gì đá đã chứng kiến trong chiến tranh, lúc em chưa sinh ra, với bao nhiêu người chết, bao nhiêu đá gạch đã đổ vỡ và đá đã khóc...". Lúc đó, ai cũng nghĩ cô bé giầu óc tưởng tượng. Nhưng về sau, người ta mới thấm thía. Con người đối xử với con người tàn tệ đến nỗi gỗ đá còn phải đau lòng. Nhớ lại câu chuyện cô bé mà thấy hiện tượng "Đức Mẹ Nhà Thờ Sài Gòn Khóc" cũng chẳng có gì là lạ.

Tượng Nữ Vương Hòa Bình đã được dựng lên mấy chục năm qua và đã chứng kiến muôn vàn khổ đau của dân tộc Việt Nam. Khổ đau trong chiến tranh. Khổ đau sau chiến tranh. Mẹ đã nhìn thấy bao vành khăn sô trên đầu hàng triệu mẹ góa con côi. Mẹ đã thấy biết bao cảnh gia đình tan nát, chiếu đất màn trời, bao mảnh đời bơ vơ lưu lạc. Mẹ đã thấy người người thất thểu từ trại tù cải tạo trở về thành phố, không còn nơi tá túc. Mẹ đã thấy bao em bé bán vé số, lang thang, bụi đời, dẫn ông bà đi ăn xin ngay dưới chân Mẹ. Mẹ cũng đã thấy xã hội ngày càng băng hoại, con người không còn đối xử với nhau bằng tình bác ái. Mẹ cũng đã nhìn thấy biết bao tệ nạn xã hội, bao nhiêu tội lỗi ngày càng tràn lan. Mẹ khóc là phải. Vì Mẹ là Mẹ của Tình Yêu. Phiến đá vô tri ở Berlin còn biết khóc, huống hồ là Mẹ.

Cứ cho là Đức Mẹ đã hiển linh bằng một dấu chỉ là giòng nước mắt chảy dài trên má tượng Mẹ. Thử hỏi tại sao Đức Mẹ khóc? Phải chăng vì thương con cái Việt Nam lầm than cực khổ vì đang bị kẻ ác thống trị? "Hãy tự giúp mình rồi thì trời sẽ giúp cho". Chạy tới Mẹ để tôn kính, để cầu nguyện là điều hiếu thảo. Chạy tới Mẹ cũng còn chứng tỏ là con cái còn đang mong chờ một cái gì mà họ không tìm thấy. Phải chăng đó là tự do, hạnh phúc? Nhưng chỉ cầu nguyện rồi không làm gì để cải tiến nếp sống của chính mình thì Mẹ cũng không giúp được gì cho mình cả. Con người được sinh ra có tự do. Chính Chúa và Đức Mẹ cũng phải tôn trọng sự tự do đó. Bao lâu con người không thể hiện được quyền tự do thiên phú của chính mình mà lại chấp nhận để kẻ ác tước đoạt tự do của mình và không tìm cách đòi lại, thì Đức Mẹ sẽ còn buồn. Mẹ khóc là thế đó.

Trong Luồng, Ngoài Luồng, Nhiều Luồng (CT18)

Thế Trân


Vào đầu tháng 11, tổng thống Bush tham dự hội nghị thượng đỉnh kinh tế tại Argentina để trao đổi về việc thành lập một vùng tự do mậu dịch của châu Mỹ. Tại đây, ông Bush đã gặp sự chống đối của các nhóm chống Mỹ biểu tình. Nhóm biểu tình bạo loạn đập phá, đốt cháy một số cơ sở thương mại. Tin tức về hội nghị cũng như sự chống đối biểu tình được loan tải rộng rãi qua giới truyền thông tại Mỹ và trên thế giới.

Cũng cùng thời gian này, chương trình ca nhạc, thời trang Duyên Dáng Việt Nam đến Úc biểu diễn tại thủ đô Canberra, và thành phố Sydney để kỷ niệm 60 năm thành lập Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tại đây, chương trình này đã gặp sự chống đối biểu tình của cộng đồng người Việt nhằm phản đối việc nhà nước sử dụng văn nghệ để tuyên truyền đánh bóng cho chế độ. Các cuộc biểu tình với nhiều ngàn người Việt tại Canberra và hơn muời ngàn người tại Sydney đã được giới truyền thông Úc đăng tải. Trong khi đó báo chí của đảng ta thì loan tin chuyến trình diễn tốt đẹp, cũng không quên thòng thêm một câu nhắc đến "một số người Việt biểu tình" nhưng không đủ can đảm, hay không được phép để đưa hình ảnh của "một số người Việt biểu tình" này như thế nào.


Cũng cùng vào thời điểm này, bên trời Tây xảy ra cuộc nổi loạn bạo động của giới trẻ gốc di dân, hầu hết là dân Bắc Phi. Tỷ lệ nghèo, thất nghiệp, kỳ thị trong giới di dân này rất cao so với dân Pháp. Cuộc nổi loạn bắt đầu từ sự việc hai thanh niên bị cảnh sát rượt phải chạy trốn vào một trạm biến điện và bị điện giật chết. Tin tức bạo loạn kéo dài cả tuần lễ đã được loan truyền rộng rãi tại Pháp và trên thế giới.


Tương phản với sự việc này là vụ nổi loạn ở Tây Nguyên. Tất cả những gì chúng ta biết chỉ là một số người Thượng nổi loạn. Và biết rất giới hạn, một chiều. Chỉ có những ai theo dõi thời sự thì có thể biết và biết rõ sự việc qua những thông tin ngoài luồng từ các đài phát thanh RFA, BBC, Chân Trời Mới, v.v....


Bản tính con người thường thì đẹp khoe, xấu che. Nhưng trong một môi trường dân chủ với tự do thông tin như các nước Tây phương, các nước phát triển... thì chuyện xấu che không nổi, che không được. Và vì thế mà giới thẩm quyền, giới trách nhiệm phải có đủ can đảm để nhìn nhận sự thật, đối đầu, trực diện với những vấn đề của xã hội, của quốc gia. Trong khi đó các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản như Việt Nam ta, thì họ dùng quyền lực cai trị, sức mạnh của guồng máy kiểm soát để ngăn chận, bưng bít thông tin. Từ đó đưa đến một sự trớ trêu: các chế độ độc tài là những chế độ yếu nhất trên thế giới. Quyền lực toàn trị của họ chỉ để lộ ra sự tự ti, yếu kém khi không đủ can đảm để đối đầu với sự thật. Lịch sử thế giới đã cho thấy những chế độ độc tài tưởng chừng như rất mạnh nhưng khi tới giờ cáo chung của họ, họ sụp đổ rất lẹ. Đó là bằng chứng hùng hồn của sự yếu đuối của các chế độ độc tài.


Trong Luồng

Tại các nước độc tài, hệ thống thông tin (báo chí, truyền thanh, truyền hình...) nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, do đó, hầu như mọi thông tin là trong luồng. Chỉ có những thông tin nào vừa ý nhà nước mới được loan tải, còn các thông tin còn lại bị bưng bít, ngăn chận bằng mọi cách. Những luồng thông tin khác từ giới đối kháng, từ quần chúng chỉ có thể lưu hành qua hệ thông tin ngoài luồng như báo chui, truyền miệng. Vì thế hệ thống thông tin của các nước độc tài chủ yếu là hệ thông tin trong luồng.

Ngoài Luồng


Ngược lại trong các nước tự do dân chủ, nhà nước tuy có những phương tiện thông tin riêng nhưng không thể xiết chặt tư duy giới truyền thông. Lại càng khó kiểm soát các phương tiện thông tin tư nhân vì phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hệ thống thông tin tư nhân phát triển mạnh và đóng vai trò chân vạc để quân bằng những sai trái, thiếu sót của xã hội, của nhà nước bằng cách thông tin rộng rãi mọi tin tức xấu tốt. Với thông tin đầy đủ như thế, người dân có đủ dữ kiện để thực thi vai trò công dân của mình bằng cách áp lực quốc hội (qua các dân biểu, đại diện dân), bằng cách bỏ phiếu chọn người đại diện, chọn lãnh đạo đất nước, bằng sự tham gia đóng góp phần mình để tác động vào xã hội, làm xã hội thăng tiến, tốt hơn. Chính hệ thống thông tin chủ lực ngoài luồng tại các nước tự do dân chủ đã giúp cho các quốc gia này thăng tiến hơn.

Nhiều Luồng


Hệ thông tin ngoài luồng tại các quốc gia tự do, dân chủ cũng vẫn có những điểm tiêu cực của nó. Trước thời Internet bộc phát, các phương tiện thông tin với cỡ tầm vóc lớn như nhật báo, tạp chí, đài truyền thanh, đài truyền hình rất tốn kém, không phải ai cũng có khả năng làm chủ các phương tiện này. Do đó giới truyền thông tư nhân rơi vào tay các đại công ty, những chủ nhân giàu có. Và họ đều có những cách nhìn vấn đề riêng của họ và vì thế thông tin đến từ các hệ thống tư nhân này ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tư duy, quan điểm của người chủ nhân. Những thông tin từ các nguồn khác không đủ sức chen chân, cạnh tranh để đến với quần chúng một cách rộng rãi.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi khi Internet trở thành một phương tiện thông tin trọng yếu của thời đại hôm nay. Phương tiện web phổ thông, đại chúng, ít tốn kém, dễ thực hiện đã giúp cho các nguồn thông tin khác có chỗ chen chân vào để đem thông tin rộng rãi đến với mọi giới. Thông tin ngày hôm nay tại các quốc gia tự do dân chủ không còn giới hạn ở trong luồng của nhà nước , ngoài luồng của các đại công ty mà bung rộng ra nhiều luồng khác nhau.

Thế cũng chưa đủ. Phương tiện web vẫn còn tốn kém, không phải ai cũng biết thực hiện, do đó nguồn thông tin web vẫn giới hạn trong số người có kiến thức, có phương tiện tài chánh chút ít. Gần đây người ta sáng tạo ra phương tiện blog là một loại web mà ai cũng thực hiện được, không tốn tiền. Thông tin không còn giới hạn ở các nhóm, tổ chức, ở những người có kiến thức web nữa mà mở rộng ra cho tất cả mọi người. Với phương tiện blog, hệ thống thông tin không còn là nhiều luồng nữa, mà là trăm luồng, ngàn luồng, vạn luồng, triệu luồng ...


Khơi Luồng Thông Tin


Thật là xấu hổ khi trên thế giới ngày nay thông tin đã được khơi lên đến muôn vạn luồng trong khi đất nước chúng ta dưới sự cai trị độc đoán của đảng và nhà nước vẫn chỉ có một luồng thông tin. Đất nước chúng ta chỉ có thể có cơ hội khá hơn, tốt hơn khi thông tin được khơi rộng từ nhiều luồng khác nhau. Chúng ta hãy nỗ lực kêu gọi mọi người, mọi giới, mọi tầng lớp cùng nhau tận dụng mọi nguồn thông tin khác nhau để mở rộng, chia sẻ những thông tin cần thiết đến với tất cả quần chúng. Chúng ta hãy nỗ lực kêu gọi thành phần trí thức, sinh viên, doanh thương là những thành phần đi đầu về kiến thức, về khả năng, hãy tận dụng và quảng bá các phương tiện thông tin như web, blog, yahoo groups, ... để chia sẻ những thông tin hữu ích bị nhà nước cấm cản. Thông tin nhiều luồng sẽ là bước đầu trong tiến trình thay đổi đất nước chúng ta.

Nhân Vật Nữ Của Năm 2005 (CT18)

Đặng Huy Lực


"Chẳng thà bị mất mạng vì sự trả thù của những con thú đàn áp đó, nhưng không thể mất quyền đòi hỏi công lý nghiêm minh" - Mukhtar Mai


Ngày 24-10 và 6-11-2005, báo Tuổi Trẻ điện tử đã đăng hai bản tin rất đáng ca ngợi ở mục Thế Giới, và cũng rất đáng để độc giả suy ngẫm hay tìm hiểu thêm. Bản tin thứ nhất viết về trường hợp bà Mukhtar Mai ở Pakistan bị cưỡng hiếp tập thể. Bản tin thứ nhì viết về giải thưởng "Người Phụ Nữ Trong Năm", do tạp chí Glamour ở Mỹ trao cho bà Mukhtar Mai.

Pakistan, còn được gọi là Hồi Quốc, sát cạnh Ấn Độ, cho tới nay vẫn còn lưu giữ hai đặc tính xã hội cổ đại: một là áp chế phái nữ; hai là phép vua thua lệ làng. Phụ nữ ở đây là nạn nhân trực tiếp và trường kỳ của cả hai tập quán thiếu văn minh và vô nhân vị đó. Họ không được đi học và không có quyền phát biểu trước đám đông. Họ thường xuyên bị sử dụng để khất nợ hay trừ nợ. Họ vẫn còn bị trừng trị bằng cách ném đá tới chết (gọi là karo-kari), về những tội danh được phán xét tùy tiện bởi các tiên chỉ trong làng, nhân danh bảo vệ chữ "danh dự" của cả làng. Đặc biệt là từ sau cuộc đảo chánh 1977 của tướng Zia ul-Haq, các đạo luật HudoodQisas-Diyat đã trở thành tai ương cho phái nữ ở đây. Theo luật Hudood, một phụ nữ bị cưỡng hiếp phải trình làng 4 nhân chứng phái nam để minh chứng sự kiện, bằng không thì bị coi là quan hệ nam nữ bất chính (nhiều phần là sẽ chịu án ném đá). Còn theo luật Diyat thì thân nhân của người bị giết có hai chọn lựa trước khi khiếu nại với cảnh sát: hoặc là tha thứ cho kẻ sát nhân, hoặc là nhận tiền tử và miễn tố.

Trường hợp của bà Mukhtar Mai bi thảm hơn người ta có thể mường tượng. Em trai 12 tuổi của bà bị nghi ngờ là có đi dạo với một tiểu thơ thuộc một thị tộc quyền thế trong làng Meerwala, hồi giữa năm 2002. Hội đồng tiên chỉ Jirga của làng nhóm họp và phán quyết hình phạt theo quy luật "mắt trả mắt, răng trả răng": Vấn đề "xúc phạm thế tộc" này chỉ có thể giải quyết bằng cách cho phía quyền chức được phép cưỡng hiếp tập thể đối với bà Mukhtar Mai để gỡ huề tiếng thơm cho dòng dõi của họ. Bốn người bên kia thực hiện xong luật trả thù đó trước mặt 200 người khác, còn buộc bà phải đi bộ về nhà trong tình trạng lỏa thể trước công chúng cả làng.

Hầu hết những nạn nhân bị cưỡng hiếp ở đây đã nín lặng và chọn cái chết cho đỡ nhục. Bà Mukhtar Mai không vậy. Bà không thể cúi đầu trước một băng đảng lão làng cường quyền vô đạo. Nỗi nhục bị hiếp nhỏ hơn nỗi nhục đồng lõa với cầm thú. Bà không thể dung dưỡng tội ác bằng sự câm nín. Bà quyết định đưa nội vụ ra ánh sáng công lý, cho dù bà là người mù chữ. Quyết định này đã gây chấn động toàn cõi Pakistan, và xuất hiện trên trang nhất làng báo quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là một vụ hình sự. Bà Mukhtar Mai đã đơn phương thách thức lại cả một hệ thống luật pháp cổ hủ, một truyền thống tộc trưởng toàn trị, một tập quán áp chế phi nhân, và một bức màn húy kỵ bao che tội ác bằng cách nhân danh "tiếng tốt" của địa phương. Bà cho rằng: "Chẳng thà bị mất mạng vì sự trả thù của những con thú đàn áp đó, nhưng không thể mất quyền đòi hỏi công lý nghiêm minh". Và bà đã thắng, nhờ dư luận hậu thuẫn cho lẽ phải. Bà đã dùng số tiền bồi thường để xây cất hai ngôi trường cho trẻ em gái ngay tại địa phương, với sự hỗ trợ của những mạnh thường quân, từ cả bên ngoài lãnh thổ Pakistan. Bà được thế giới biết đến qua lời phát biểu chân tình: "Giáo dục chính là sức mạnh... Nếu được giáo dục, người ta sẽ biết cách đấu tranh để bảo vệ lấy mình".

Nhưng không được bao lâu, những bị can trong vụ cưỡng dâm gỡ huề thế giá đó lần lượt được phóng thích vì nhiều lý do mơ hồ. Bà Mukhtar Mai lại phải tiếp tục đấu tranh để đưa vụ kiện lên tới tòa án tối cao, kể cả việc kêu gọi phụ nữ xuống đường. 14 tay vũ phu phải vào tù trở lại là điều cần thiết cho xã hội. Nhưng cần thiết hơn nữa là nguyên cả xã hội phải tỉnh thức và đồng lòng bài trừ tội ác đã lưu cửu thành truyền thống. Lẽ phải bấy giờ không ở bên cạnh bà nữa. Lẽ phải đã được chia đều cho đám đông. Lẽ phải đã thông đường bằng sức mạnh quần chúng tuy ôn hòa nhưng quyết liệt. Vụ việc bấy giờ đã lan rộng ra tới tầm quan trắc của thế giới. "Mukhtar Mai đã trở thành biểu tượng cho phụ nữ toàn cầu về lòng dũng cảm chống lại bất công trong xã hội", bà Nisha Varia của tổ chức Quan Sát Nhân Quyền Quốc Tế nhận định như vậy. Bà Mukhtar Mai đã được tuần báo Time-Asia của Mỹ vinh danh là Nữ Kiệt Á Châu (4-10-2004). Hệ thống truyền thông toàn quốc ABC của Mỹ đã xiển dương bà là Nhân Vật Trong Tuần (21-10-2005). Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã trang trọng giới thiệu bà trước dàn cử tọa sáng danh tại hội trường Lincohn ở New York (2-11-2005), trong dịp tạp chí Glamour vinh danh bà Mukhtar Mai là "Nhân Vật Nữ Của Năm 2005".

Ngay cả việc xuất cảnh để đi nhận các giải thưởng, bà Mukhtar Mai cũng đã gặp những trở ngại phiền phức của một cơ chế nhũng nhiễu. Tuy nhiên, chính quyền Pakistan sau cùng cũng phải đổi mới thủ tục hành chánh và quan niệm đối ngoại để bà sang Mỹ. Điều đó tốt, nhưng không quan trọng bằng những cải cách xã hội mà chính quyền Pakistan đã phải bắt đầu thực hiện và phải sớm hoàn tất trong thời gian tới, dưới áp lực quần chúng trong nước và sự chú mục của cà thế giới.

Chủ bút Cindi Leive của tạp chí Glamour cho biết tiêu chuẩn để đoạt giải phải là người "tin rằng nữ giới có thể thực hiện bất kỳ điều gì mà mình quyết tâm, và bà Mukhtar Mai đã biểu dương đầy đủ những phẩm chất đó hơn bất kỳ ai khác". Quyết tâm đầu tiên của bà Mukhtar Mai là bẻ gãy thói quen im lặng và chịu đựng của những người bị đàn áp: Phải nói lên khát vọng để cách tân xã hội. Quyết tâm gióng tiếng của bà đã làm thay đổi cả lịch sử nữ quyền ở Pakistan. Bà không chỉ làm gương cho quần chúng đứng lên đòi quyền làm người và giành lại nhân phẩm. Bà còn giáo dục cả một chính quyền đang nắm nguyên vẹn hệ thống công an, quân đội và tư pháp trong tay phải hành xử sao cho xứng đáng là những con người.

Lời Từ Chối Làm Nên Lịch Sử (CT18)

Lê Bá Thạch


Vào giữa thế kỷ 20, nước Mỹ vẫn còn là biểu tượng của nạn kỳ thị da màu. Suốt dọc các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, những nơi công cộng đều được phân định rõ ràng lằn ranh chỗ nào cho người da đen được phép bước qua. Cả công xá, quán xá cho tới xe buýt.... Nhiều nơi còn yết thị những biển báo mang đầy tính miệt thị: "Cấm người da đen và chó vào". Luật Mỹ bấy giờ ở nhiều tiểu bang còn quy rõ rằng người da đen không được làm một số công việc nhất định, không được cư ngụ ở một số khu vực nhất định, và có bổn phận phải nhường chỗ cho người da trắng trên mọi phương tiện vận chuyển công cộng. Tình trạng này đã kéo dài từ đầu thế kỷ 20, và cả hai phía màu da đã chấp nhận như một sinh hoạt "bình thường". Cho tới ngày 1 tháng 12 năm 1955, bà Rosa Parks, 42 tuổi, người da đen làm nghề thợ may, ngụ tại thành phố Montgomery thuộc tiểu bang Alabama, quyết không chịu nhường ghế đang ngồi trên xe buýt cho một người đàn ông da trắng. Bà bị câu lưu và bị phạt 14 USD.

Trước đó đã từng có 2 người da đen đi xe buýt ở Alabama bị phạt vì tội không nhường chỗ cho người da trắng, nhưng bà Rosa Parks là người đầu tiên dám thách thức những bộ luật phân biệt chủng tộc tại Alabama lên tới Tối Cao Pháp Viện cấp liên bang. Động lực chính, theo lời bà kể lại, là vì bà tin rằng mọi người đều có quyền được đối xử bình đằng như nhau, và bà cho rằng đã phải chịu đựng tình trạng bất công đó quá lâu.

Phản ứng kế tiếp của người da đen ở thành phố này là tẩy chay hệ thống chuyên chở công cộng suốt 381 ngày, theo lời kêu gọi của Mục sư Martin Luther King Junior. Các phong trào đấu tranh bất bạo động đòi bãi bỏ sự kỳ thị da màu từ đó nổi lên khắp cả nước Mỹ, với thắng lợi sau cùng là quyền bình đẳng của mọi công dân Mỹ ngày nay, sau khi các điều luật vi hiến đã bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ loại bỏ. Từ đó, bà Rosa Parks được vinh danh là Bà Mẹ Của Đấu Tranh Nhân Quyền ở Mỹ.

Kết quả to lớn cho cả nước Mỹ là vậy, nhưng để được vậy cũng không phải đơn giản: Suốt thời gian hơn 300 ngày đó, khi chấp nhận tham gia cuộc đấu tranh bất hợp tác, tẩy chay không sử dụng phương tiện công cộng đó, thì nhiều gia đình người dân da đen vốn đã nghèo lại càng khốn khó hơn. Nhiều chủ nhân đã hăm dọa đuổi việc, gây khó dễ, và liên tục tạo muôn vàn áp suất lên thợ thuyền, công nhân da đen nếu họ không đến công xưởng đúng giờ; hoặc để mất ngày làm việc (do không đủ tiền để đi đến chỗ làm bằng phương tiện di chuyển khác, nên phải xin nghỉ làm v.v....). Nhiều người, gồm cả những người cao tuổi, đã phải thức từ 3, 4 giờ sáng để đi bộ đến chỗ làm cho kịp giờ, và nhiều đôi chân đã bật máu vì phồng da, sưng tấy suốt nhiều tháng trời ròng rã quyết tâm đi bộ. Việc đi chợ phải xách nặng lại đi bộ xa, đi đến bệnh xá, các buổi hẹn v.v.... đều dùng chính đôi chân mà giải quyết trong nhiều tháng hẳn nhiên là nhiều bất tiện và tốn kém thời giờ. Trong khi phương tiện thuận lợi hơn thì lúc nào cũng ở ngay sẵn trước cửa thôi thúc chờ đón, nhưng họ đã hạ quyết tâm, nhất định không dùng.

Chưa kể, nhiều gia đình người da đen đã mất việc vì nhà ở quá xa không thể đi bộ được, nhưng trong sự nghèo khó cực khổ hơn lúc bấy giờ của lũ con cái nheo nhóc, người dân da đen đã ý thức rất rõ, là dù gia đình họ có phải gánh chịu cam khổ trước mắt của quyết định đứng lên đấu tranh bất bạo động cho quyền lợi của cả sắc dân mình, thì kết quả thắng lợi cuối cùng cũng là vì chính tương lai lâu dài của thế hệ con cháu họ mai sau !!!

Do đó, việc đứng lên vì lẽ phải và đấu tranh cho công lý lúc nào cũng có những mất mát, thiệt thòi trước mắt, nhưng sau một thời gian, sự quyết tâm hợp quần của dân chúng sẽ mang lại những tác động chuyển đổi cả lịch sử một dân tộc. Nước Mỹ không những đã công nhận quyền bình đẳng của mọi sắc dân, điều này còn được ghi rõ vào các bộ luật nghiêm cấm tội kỳ thị, và đặc biệt là ngay trong học đường, các thế hệ trẻ từ cuối thập niên 50 tới nay đã được giáo dục tốt về việc đối xử bình đẳng với các bạn đồng lứa, trước khi ra giao tế ngoài xã hội.

Bà Rosa Parks qua đời vào ngày 24 tháng 10 năm 2005, trong lúc tiểu bang Alabama đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm một lời từ chối khiến cả lịch sử và văn hóa nước Mỹ sang trang.

Chuyện kể về bà Rosa Parks được viết thành nhiều quyển sách, nổi tiếng nhất là quyển "Sức Mạnh Thầm Lặng: Niềm Tin, Hy Vọng và Trái Tim của một phụ nữ đã làm thay đổi một Quốc Gia". Cho đến cuối đời, bà vẫn tin rằng sức mạnh đó không chỉ đến từ một lời kiên quyết chối từ, mà còn đến từ sự hưởng ứng của quần chúng trước lẽ phải.

Đây là một gương sáng cho nhân loại nói chung và cho người Việt nói riêng. Khởi đầu từ nỗ lực chấm dứt quốc nạn cường quyền và tham nhũng, Việt Nam cần gióng giã những lời chối từ vì lẽ phải, và sự hưởng ứng của quần chúng nhân dân sau đó, cũng vì công bằng và lẽ phải, về quyền làm người.

* Dữ kiện lấy từ bản tin trên VNexpress ngày 25/10/2005 và trên mạng Google