26 tháng 9, 2006

Lời Ngỏ (CT28)

Đã một thời, người ta thường nói nhân tài như lá mùa thu khi nhìn vào thực trạng đen tối của đất nước. Đã nhiều năm, những con người lý tưởng Việt Nam dám công khai đứng lên chống lại bạo quyền được đếm bằng những ngón tay. Đã quá lâu chúng ta nhìn nhau và thấy rõ được nét sợ hãi của nhau đối với bóng ma chủ nghĩa. Cả một đất nước sống mà như chết. Một giải giang sơn phơi mình cam chịu như cánh đồng khô cằn, hốc hác dưới con nắng đỏ khởi đi từ dạo tháng 8 mùa thu. Vậy mà những tháng qua, như sau một cơn mưa rào thấm đất, những hạt mầm ấp ủ từ thuở nào đã lũ lượt đâm chồi nảy lộc. Những con người mới, từ lâu không ai biết, đã xuất hiện. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng lại trỗi lên những tên gọi mới, những nhà dân chủ mới. Tuyên ngôn Dân chủ. Tự do Ngôn luận. Công khai Lập đảng. Cùng nhau ký. Cùng nhau phát biểu. Cùng nhau đối chất với công an. Cùng nhau thách đố bạo quyền. Cùng nhau đòi giành lấy lại vận mệnh của giống nòi. Đã qua cái thời tự tung tự tác "bỏ tù cả lũ", đã qua cái thời hăm dọa một người trăm người sẽ rút. Đất nước Việt Nam đang trỗi mình, dân tộc đang hồi sinh. Con người đã bắt đầu bớt sợ. Có những người đã không còn sợ.

Đã qua nhiều năm tháng, có những con người Việt Nam thao thức trước tiền đồ của tổ quốc đã tự chọn cho mình một con đường lẻ loi, đơn độc để nhân danh Thiện chống lại Ác. Nỗi sợ hãi lớn nhất của họ không phải là bạo quyền mà là sự thiếu vắng của những con người lý tưởng khác. Người người che dấu sự bất lực của mình bằng thái độ thờ ơ. Người người dấu kín lý tưởng và khát vọng của mình trong sâu thẳm đến nỗi tưởng như là không còn hiện hữu. Cải cách Ruộng đất, Nhân văn Giai Phẩm, Giải phóng, Cải tạo, Vượt biên, Đổi mới, Đông Âu sụp đổ, Thiên niên kỷ mới ... Mỗi dấu ấn lịch sử của thời đại trôi qua và những con người lý tưởng, kẻ đã già, người còn trẻ vẫn âm thầm trong cô đơn và trong muôn ngàn nghịch cảnh, trường kỳ nuôi dưỡng ý chí và lý tưởng phục hưng. Ngày hôm nay, nỗi cô đang từ từ lùi bước. Đã có nhiều người bạn đồng hành, dù chính thức hay chưa chính thức nhận mặt nhau. Đã có những anh hùng đang vươn mình bước ra ánh sáng để công khai truyền bá lý tưởng, sứ mệnh và hoài bảo cho dân tộc. Ngày hôm nay, đã tới giai đoạn "tôi không còn cô độc ngay trên tổ quốc của mình" của những con người mang lý tưởng Tự Do và Dân Chủ.

Trời đã sắp vào thu. Hình ảnh những con đường lá vàng rơi rụng lại sắp sửa trở về. Hình ảnh một người đang lầm lũi quét lá nâu khô lại sẽ đến. Chung quanh lá sẽ vẫn rơi rụng. Người đàn ông sẽ vẫn cặm cụi quét, trong yên lặng, kiên nhẫn, chịu đựng. Ở bên kia con đường sẽ có những người đang ngồi bên trong khung cửa ấm nhìn ra. Trong bầu trời vào thu ảm đạm, sẽ không chắc nhiều người thấy trước mắt mình đang hé mở một mùa xuân quang đãng, không còn lá vàng và chỉ có cây xanh. Nhưng ai cũng sẽ biết, dù đó là người phu quét đường, dù đó là người bình thản trong nhà nhìn ra, đều biết là lá sẽ thôi rơi, sẽ được quét sạch, mùa thu vàng úa sẽ nhường chỗ cho trời xuân tươi sáng.

Không thấy đích đến nhưng biết chắc là đích đến hiện hữu, nhưng biết chắc sẽ có người đến đích. Chỉ thấy những con ve sầu thôi cất giọng buồn thảm sẽ biết chắc thu phong lại đến. Chỉ thấy lá rơi, chỉ thấy mùa thu hiện tại vàng úa chung quanh, nhưng biết chắc sẽ có ngày mãnh vườn sẽ sạch, mùa xuân sẽ tới. Đó chính là Niềm Tin và Hy Vọng. Trong niềm tin và hy vọng đó, dù biết rằng có thể chúng ta không làm được việc lớn để thay đổi thế gian, nhưng chắc chắn mỗi người chúng ta có thể làm được việc nhỏ. Từ việc nhỏ sẽ có khả năng tác động việc lớn. Mỗi người chúng ta không đủ sức làm một cơn sóng lớn chấn động mặt hồ, nhưng với một giọt nước nhỏ kết hợp với nghìn nghìn giọt nước nhỏ khác, cùng nhau ta vẫn có thể làm mặt hồ chuyển động. Đó chính là Nhận Thức và Dấn Thân.

Hãy tin và hy vọng. Vì đất nước đang trỗi mình. Vì dân tộc đang hồi sinh. Vì chúng ta không còn đơn độc. Tương lai sẽ phải tươi sáng như đêm phải nhường chỗ cho ngày.

Hãy nhận thức và dấn thân. Vì thiện phải thắng ác. Bất kỳ một chế độ nào không đáp ứng nguyện vọng của người dân, chế độ đó phải xụp đổ. Một họng súng có thể làm chùn bước một người nhưng ngàn họng súng, ngàn xe tăng sẽ phải chùn bước trước vạn người tay yếu chân mềm nhưng ý chí vững như tường đồng chắc như vách sắt. Mọi cuộc cách mạng đều bắt đầu và chấm dứt ở những đôi chân cùng nhịp bước của nhân dân. Một người bước nhiều người sẽ bước theo. Và ngày hôm nay, đã có nhiều bước chân đang tiên phong tiến bước.

Nhóm Chủ Trương Canh Tân

Vừa Trát Phấn ... Vừa Bôi Nhọ (CT28)


Vũ Thạch

Đến giờ này thì có lẽ ai cũng biết việc đảng và nhà nước CSVN thả tù bác sĩ Phạm Hồng Sơn hoàn toàn là bước nhượng bộ trước áp lực ngoại quốc. Mục tiêu chính là để tô điểm lại bộ mặt chế độ trong một thời gian ngắn trước khi được thông qua qui chế Mậu Dịch Bình Thường Vĩnh Viễn với Hoa Kỳ và trở thành hội viên chính thức với Tổ Chức Mậu Dịch Quốc Tế. Nhưng ngược lại, chính đợt đàn áp mới của công an nhắm vào các nhà dân chủ khác, trước và sau ngày thả tù bác sĩ Phạm Hồng Sơn và quanh ngày 2 tháng 9 vừa qua, cũng chứng minh rất rõ đảng và nhà nước CSVN chẳng có chút thiện chí nào trong việc cải thiện tình trạng nhân quyền tại Việt Nam mà nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế liên tục kêu gọi.

Thật vậy, trên hầu hết các tường thuật của báo chí ngoại quốc lẫn Việt ngữ tại hải ngoại về trường hợp bác sĩ Phạm Hồng Sơn, họ đều cùng lúc nhắc đến:

• Việc chế độ ngưng giam bác sĩ Phạm Hồng Sơn trong tù chỉ để tiếp tục giam ông tại nhà, qua cái gọi là "địa phương quản lý";
• Việc chế độ cố tình giữ bác sĩ Phạm Hồng Sơn lại thêm vài ngày chỉ để ông không thể đưa tang bố của mình;
• Việc chế độ tiếp tục giam giữ vô lý và phi pháp ký giả Nguyễn Vũ Bình và nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo, nhân quyền khác;
• Nhưng quan trọng hơn hết là việc chế độ tung ra cả một chiến dịch tấn công đồng loạt nhiều nhà dân chủ trong những tuần lễ dẫn đến thời điểm 2 tháng 9: từ việc hành hung ông Vũ Hoàng Hải đến độ phải đi nhà thương; việc sách nhiễu ông Đỗ Nam Hải, buộc đóng tiền phạt mà không chứng minh nổi điều luật nào đã vi phạm; việc bắt đi biệt tăm ông Nguyễn Ngọc Quang trên đường ra thăm mộ phần thân phụ; việc tiếp tục giam cầm ông Trương Quốc Huy đã 2 tuần không công bố tội danh; việc xét nhà và áp lực đuổi nhà ông Bạch Ngọc Dương bằng cách hăm dọa người cho thuê; việc hăm dọa luật sư Nguyễn Văn Đài không được đi đón bác sĩ Phạm Hồng Sơn;
• Và bao vây, theo dõi, hăm dọa hầu hết các nhà dân chủ khác hoàn toàn theo tác phong mà báo chí thế giới chỉ thấy ở những tập đoàn mafia chuyên nghiệp.

Kết quả là trong mắt công luận quốc tế lẫn người Việt trong và ngoài nước, hình ảnh chế độ không những không cải thiện mà nét côn đồ mafia lại càng hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể hơn qua từng con người thật, bàn tay thật của những cán bộ công an hiểm độc có tên tuổi hẳn hoi, như những Bạch Hưng Tân, Đặng Hồng Đức, Nguyễn Văn Bình, Doãn Anh Thủy, v.v....

Câu hỏi được đặt ra là tại sao những người lãnh đạo chế độ CSVN lại có thái độ vừa trát phấn vừa bôi nhọ lên mặt mình như thế ?

Có người cho rằng đây chỉ là quán tính của cái thời "chính nghĩa trên nòng súng", và cứ bảo cấp dưới lẳng lặng đàn áp bằng lệnh miệng thì thế giới chẳng thể nào biết được mà can thiệp. Nếu còn bộ óc nào vẫn mang loại suy nghĩ này, hẳn họ sẽ ngạc nhiên lắm khi có ngày chịu mở mắt ra đọc vài mẫu tin trên các mạng Internet. Và có lẽ sẽ còn kinh ngạc hơn nữa khi hình ảnh và hồ sơ tội ác của họ và của từng hung thần hiện nay của chế độ xuất hiện trên những trang điện tử khắp nơi trên thế giới.

Cũng có người cho rằng nguyên nhân của hiện tượng chế độ vừa ráng bôi son vừa tự trát trấu là tình trạng kình chống nhau ngày càng vô phương cứu chữa giữa các phe cánh tại thượng tầng lãnh đạo đảng, không chỉ trong số những người chính thức ngồi tại Tổng Bộ Chính Trị Đảng CSVN mà còn từ những bàn tay đầy quyền lực với ra từ bóng tối hậu trường. Không phe cánh nào muốn đối thủ của mình thành công để rồi có thêm quyền lực trong Đảng.

Và sau hết, có người cho rằng chính từ tình trạng giằng co vô hạn đó ở thượng tầng mà hệ thống công an, vốn theo truyền thống nắm rất nhiều quyền lực trong chế độ, không những đang từng bước xa dần bàn tay kiểm soát của đảng CSVN, tự quyết định kế hoạch hành động riêng cho mục tiêu quyền và lợi của riêng họ, mà còn len lấn xa và sâu hơn vào hệ thống điều hành cả quốc gia. Kết quả bầu cử Trung Ương Đảng CSVN tại Đại Hội 10 là một bằng chứng khá rõ.

Nhưng dù nguyên nhân đến từ đâu thì việc đẩy được chế độ vào cách hành xử hiện tại vẫn là một thành quả rất lớn của lực lượng dân chủ VN, với sự lấn tới tiên tục và phối hợp hiệu quả từ trong nước ra đến hải ngoại. Nếu nhìn từ góc độ cá nhân, một số nhà dân chủ đã phải chịu một số thiệt thòi trong những tuần qua. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn cảnh, rõ ràng các nhà dân chủ Việt Nam đã thành công, dù với tay không, vẫn ép buộc được chế độ vào vị trí thất bại, không dấu được bộ mặt thật của họ trước thế giới qua màn kịch "thả tù nhân ngày 2 tháng 9".




Tự do là người dân phải đuợc sống ở đâu mà mình muốn. Tự do là người dân phải được tự do lựa chọn món hàng mà mình bỏ tiền ra mua ; Tự do là người dân phải được tự do kiếm nghề sinh sống phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mình ; Tự do là người dân phải được tự do nói lên những điều mình cho là đúng, … thì cái xã hội, chế độ mà những người cộng sản Việt Nam dựng lên ở miền Bắc Việt Nam sau 1954 hoàn toàn không đáp ứng được các ý niệm tự do sơ khai đó. Hơn nữa, bất kỳ ai có ý tưởng hay hành vi không ủng hộ hoặc chống đối lại chính sách của Nhà nước đều bị cho là phần tử nguy hiểm và dễ dàng bị đưa đi tập trung cải tạo (cầm tù) vô thời hạn. Những khát khao, kỳ vọng của đông đảo quần chúng khi ủng hộ, hy sinh cứu quốc, đoàn kết, tự do, độc lập, hành phúc của những người cộng sản đã được đáp lại bằng một cuộc sống kìm hãm như thế. Với những gì mà những người cộng sản đem lại cho người dân so với những hô hào, kêu gọi, cam kết của họ thì chỉ có một từ duy nhất diến tả được, đó là : Sự lừa dối! … Lịch sử lại một lần nữa cho thấy thói cường quyền, độc tài luôn kèm theo căn bệnh ngụy biện, lừa mỵ, đạo đức giả.... Và trong lịch sử nhân loại, có lẽ cũng chỉ thấy một hiện tượng hy hữu xảy ra ở Việt Nam... quyền lãnh đạo đất nước và quản trị quốc gia vẫn bị người cộng sản độc chiếm và như một vòng xoắn bệnh lý, sự dối lừa vẫn tiếp diễn. Sự dối lừa đã tiếp diễn suốt 61 năm qua.... Phạm Hồng Sơn

Tham Nhũng (CT28)


Nguyễn Thái Bình

Suốt gần 2 năm nay, một bầu không khí ồn ào xuất hiện trên tất cả các diễn đàn chính thức và không chính thức. Đó là đề tài chống tham nhũng. Khởi tố, bắt giam, truy tố, bỏ tù, không có vùng cấm cho tham nhũng…những cụm từ đó xuất hiện với một tần suất ngày một dày và âm vang ngày càng lớn. Được vô số báo lá cải và không lá cải loan tin. Cách đưa tin cũng mập mờ, nửa kín nửa hở. Nó giống như một cô gái chân dài vừa muốn váy không ngắn thêm nhưng đùi phải “phô” ra nhiều hơn nữa.

Trong rất nhiều cuộc họp của Chính phủ và các cơ quan Bộ ngành bây giờ ai cũng nói chuyện chống tham nhũng, ai cũng chửi nhưng không ai tự nhận là mình tham nhũng, nó giống như một phản ứng tâm lý để chứng tỏ mình trong sạch. Thực tế thì chống tham nhũng là chống ai ? Đánh tham nhũng là đánh ai ? bắt ai ? vì lý do gì ? Tất cả đều chưa đề cập đến một cách thấu đáo.

Từ diễn đàn quốc hội:
Rất nhiều đại biểu quốc hội gào lên “chống tham nhũng” một cách vô hồn mà không hề nghĩ lại mình. Lương trung bình của một đại biểu quốc hội là: 2 triệu đồng/tháng. Gia đình một đại biểu quốc hội hiện tiêu xài khoảng 8 triệu đồng một tháng. Họ vẫn sống, vẫn gào. Vẫn háo hức đợi chờ phong bì và vẫn rất “đại thanh” khi nói chống tham nhũng.

Quả thật, tất cả các đại biểu quốc hội đều thường xuyên nhận phong bì, cái ít nhất cũng trên 500.000 đ. Nếu như ai là đại biểu quốc hội không nhận phong bì thì có thể công bố công khai chứng minh. Mỗi một ngôi biệt thự ở Việt nam bây giờ trung bình là 2,5 tỷ. (ở thành phố lớn là 4 đến 5 tỷ ), ở thủ phủ của các tỉnh là 1 đến 1,5 tỷ. Hầu hết các đại biểu quốc hội đều có biệt thự hoặc nhà riêng ở Thành phố lớn hoặc ở tỉnh (nhiều khi là cả 2 nơi). Có thể nói tất cả các đại biểu quốc hội đều đang sở hữu những tài sản ít nhất là 2 tỷ. Lương họ chưa đủ ăn vậy tiền đến từ đâu ? Nó đến từ phong bì.

Hiện nay nếu ai đó đến nhờ vả những đại biểu quốc hội mà đưa phong bì dưới 10 triệu thì coi như bị “vứt qua cửa sổ” vì bị các vị đó cho là không biết điều. Dù cho sự giúp đỡ đó có thể là rất nhỏ nhặt.

Đến các cán bộ công chức:

Lương của cán bộ công chức nhà nước tuỳ thuộc vào ngạch, bậc…nhưng phần lớn nằm ở mức 1 đến 2 triệu/tháng. Hiện nay trung bình một gia đình chi tiêu ở thành phố cũng khoảng 5 triệu đồng/tháng. Họ vẫn sống và hầu hết họ cũng có nhà riêng. Nhà riêng ở Thành phố khoảng 1-2 tỷ hoặc căn hộ cũng trên dưới 1 tỷ. Lương họ chưa đủ ăn, vậy tiền đâu ? Nó đến từ phong bì.

Tất cả các cán bộ công chức thường xuyên nhận phong bì. Giá chung cho các thành viên tham dự họp bây giờ là 100.000đ. Cũng có chỗ chi “hậu” đến 300.000. Đó là những khoản chi liên tục cho các cuộc họp và hầu như ngày nào cũng có vì họp hành ở các Bộ, Ngành thì nhiều vô kể xiết. Các bạn hỏi tiền đó ở đâu ra ư ?

Nó đến từ các doanh nghiệp, từ các dự án và sâu xa hơn là đến từ một hệ thống kế toán phức tạp và rắc rối nhất thế gian này. Hiện ở Việt Nam số lượng người làm kế toán, tài chính, tiền lương tại các cơ quan nhà nước là cực lớn. Tôi không biết trên thế gian này còn chỗ nào phức tạp hơn hệ thống tiền lương, bậc, ngạch, hệ, phụ cấp… rắc rối như ở Việt nam với vô vàn con số lẻ. Từ đó người làm công tác kế toán: “muốn đúng thì phải sai”. Đây là một sự thật mà ai đã và đang làm kế toán ở cơ quan Nhà nước mới thấy rõ, nói ra thì rất dài.

Bắt ngay “tầng lớp doanh nhân mới”:

Có thể nói tất cả các doanh nhân đều đã từng đưa phong bì. Ít nhất là có một cái trên năm trăm ngàn đồng. Không một doanh nhân nào dám nói rằng mình kinh doanh tại Việt Nam là sạch sẽ, đường hoàng. Tôi đã gặp nhiều doanh nhân mới cũng tỏ ra anh hùng “tao làm đến cùng”. “Tao sẽ nộp thuế đường hoàng và làm cho ra nhẽ”. Nhưng than ôi, nộp thuế vào cho Nhà nước đâu phải là đơn giản vì cán bộ thuế đâu muốn doanh nhân nộp nhiều thuế cho Nhà nước mà chỉ muốn nộp vào hầu bao của cán bộ mà thôi. Dù cho “ít cũng được” nhưng là phải nộp cho cá nhân cán bộ thuế. Hầu hết các doanh nhân cuối cùng cũng thoả hiệp, một số ít thì bị “đập” đến chết.

Một lần buông xuôi là một lần doanh nhân thấy quen. “thôi thì cho được việc, cả xã hội nó thế” nên cũng không đấu tranh làm gì nữa. Lâu dần sẽ thành quen. Họ trở nên những kẻ tiếp tay cho tham nhũng mạnh mẽ nhất. Một số người khác thì bị “đập” chết oan ức cho nên tạo ra tiền lệ và tâm lý rất nặng nề trong xã hội. Không đưa phong bì là ngu, là “thế mà cũng đòi làm doanh nhân”.

Và tóm cổ người dân:

Hầu hết người dân trưởng thành ở Việt Nam đều đã từng đưa phong bì. Nhiều người dân móc mãi trong lưng quần ra 500 ngàn để đưa cho bác sỹ trước ca mổ. Những nông phu bán lúa non gửi cho con tiền để góp đưa cho thầy giáo khi không muốn “đem tình” đổi điểm. Tiểu thương thị thành nói thách bán đắt gom góp từng xu lẻ để ‘chạy trường” cho con. Chị bán phở, anh bán nước mía, bà bán chè chén bên vỉa hè phải bỏ vào phong bì cho công an, trật tự viên tiền “luật” hàng tháng. Bác thợ mộc, anh thợ nề, chị gánh thuê nhịn ăn sáng để đóng tiền tạm trú, kiếm một chỗ làm hay đơn giản chỉ là được “đứng” để bán sức lao động. Vì cuộc sống mưu sinh khổ sở trong xã hội nhố nhăng này, tất cả họ đều đang tiếp tay cho tham nhũng. Dù ít dù nhiều họ đều đang vi phạm pháp luật.

Với 80% dân số là nông dân, từng đồng xu lẻ của đại bộ phận người dân cứ theo nhau chạy dài về thành phố. Tiền từ cấp xã lên huyện, huyện lên tỉnh và tỉnh ra Trung ương. Trung ương ra nước ngoài. Tích tiểu thành đại. Đó là dòng chảy thực của đồng tiền tại Việt Nam chứ không phải là dòng đầu tư cho Nông nghiệp Nông thôn mà Nhà nước vẫn ngày đêm rao giảng. Người dân đâu được hưởng gì từ hệ thống nhà máy đường đến những giàn khoan hay nhà máy lọc dầu Dung Quất, từ những chiếc máy bay mới của Vietnam Airlines cho đến những con đường PMUs. Nhưng họ sẽ là những người đang tích góp từng đồng để nuôi tham nhũng và còn để trả nợ mai sau. Nguy hiểm hơn, họ có thể bị bắt một cách đúng luật của Nhà nước bất cứ lúc nào.

Đến trẻ em có tội ?

Bạn tôi kể một câu chuyện rất đáng suy ngẫm. Một hôm bố của một cậu học sinh lớp 5 tìm thấy mấy chiếc phong bì trong cặp sách của con trai. Có loại phong bì 20 ngàn, loại 10 ngàn và loại 5 ngàn. Hỏi sao lại thế và để làm gì ? Sau một hồi bối rối, cậu bé thú nhận: Cái 20 ngàn là cho kiểm tra 1 tiết, cái 10 ngàn là kiểm tra 15 phút và phong bì 5 ngàn là cho kiểm tra miệng. Tất cả nộp cho lớp trưởng và lớp trưởng “đi thăm” thầy chủ nhiệm. Lại còn có một chuyện khác: Một em bé 3 tuổi đi học mẫu giáo ngây thơ nói với cô giáo: “Cô cho cháu cái phiếu bé ngoan, cháu cho cô 2 ngàn”. Không biết các câu chuyện trên đúng sai thế nào nhưng thấy quen và đau xót quá.

Bắt đảng và bị đảng bắt!:

Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội Việt Nam. Có đến 95% đại biểu quốc hội là đảng viên đảng CS. Đại biểu quốc hội là người làm ra luật. Nói đúng hơn là cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng Cộng sản bằng pháp luật. Trong bộ luật hình sự hiện hành, tại Điều 279 quy định “người nào nhận hối lộ từ 500.000 (năm trăm ngàn đồng) đến dưới 10 triệu đồng thì bị phạt tù từ hai năm đến 7 năm”. Xin lưu ý là trên năm trăm ngàn thì phạm tội hình sự còn dưới năm trăm ngàn thì đều là vi phạm hành chính và có thể bị xử lý (tức là đều phạm tội ).

Theo quy định của Pháp luật thì ai cũng có thể bị bắt vào bất cứ lúc nào vì tội tham nhũng. Vì ai cũng có thể bị bắt cho nên Đảng có quyền chọn để ưu tiên bắt ai. Thứ nhấtđảng hay chọn bắt những doanh nghiệp tư nhân chứ không phải Nhà nước, Thứ hai Đảng chọn những người không phải là đảng viên để bắt còn nếu bắt quá lắm phải bắt đảng viên thì phải khai trừ ra trước rồi mới bắt và thứ ba quan trọng nhất là Đảng chọn cái bọn không có “phong bì” để chạy.

Với một hệ thống luật pháp chồng chéo và nhiêu khê, đôi lúc mâu thuẫn nhau; Với một xã hội nặng tính nho giáo nơi các mạng lưới quan hệ gia đình, bạn bè chằng chịt đan xen và với một thói quen xem thường dịch vụ tư vấn pháp lý, doanh nhân nào ở Việt Nam cũng như lạc vào một mê hồn trận, u u minh minh, sắc sắc không không. Kẻ thù cực kỳ vô hình, nó giống như một thứ ảo giác. Nhưng vẫn có một thứ đạn để tiêu diệt kẻ thù đó. Thứ đạn này nó giải quyết được tất cả mọi thứ nhưng không đảm bảo anh an toàn. Nó giúp anh giải quyết được việc nhưng nó không tha thứ cho anh. Nó gói anh vào và nó dán kín anh lại. Phong bì.

Nhưng sẽ có một ngày. Chiếc phong bì sẽ rách. Cái phong bì đang đóng gói 83 triệu người dân trong sự tha hoá, sự suy đồi đạo đức và tội lỗi sẽ bị chọc thủng. Cái phong bì là Đảng cộng sản đang dạy cho người ta bôi trơn để được việc và để cùng nhau tha hoá chứ không tạo điều kiện cho người dân trở nên lương thiện. Giống như Chí Phèo xưa, Bây giờ ở Việt Nam chúng ta muốn làm người lương thiện cũng không thể được. Nhưng có một sự thật rằng muốn trở nên lương thiện chúng ta phải Canh tân chính mình.




Thực tế chứng minh rằng mỗi một hành động tuy nhỏ nhưng có giá trị gấp hàng ngàn, hàng vạn lần lời nói . Công cuộc chấn hưng đất nước với mục tiêu dân chủ, tự do đang đứng trước một thách thức phải có bước nhảy vọt mới về lượng và chất ... Dùng mọi hành động nào đang hợp pháp để đấu tranh và lợi dụng triệt để sự sơ hở của đối phương, như việc làm của cảnh sát giao thông để lên tiếng về tự do, nhân quyền dân chủ có kết hợp với WTO … dù có bị giữ xe hay thiệt hại một chút thì cũng không sao, xe ôtô được giữ tại bãi xe có bạt che mưa nắng như xe của Bộ trưởng , không ai xâm phạm … vì bây giờ ngay cả cảnh sát giao thông cũng ngại va chạm về chính trị, có khi nhìn thấy biển xe công ty tôi bây giờ cảnh sát giao thông cũng phát ngán , không thèm chấp. Nguyễn Phương Anh

05 tháng 9, 2006

CSVN và Khủng Bố (CT28)

Trần Đức Tường

Từ nhiều năm nay, thế giới bị ám ảnh vì nạn khủng bố. Thống kê cho thấy đã có hàng vạn người dân vô tội trên khắp thế giới bị chết oan uổng vì nạn khủng bố. Nhân loại không quên được vụ quân khủng bố cướp máy bay chở đầy hành khách lao vào hai tòa nhà cao tầng tại New York và Ngũ Giác Đài tại Hoa Thịnh Đốn ngày 11/09/2001 giết hại gần 3000 người và làm bị thương hàng chục ngàn người khác. Từ đó đến nay, đã xẩy ra hàng trăm vụ khủng bố đặt bom mà hầu hết không nhằm vào các cơ quan chính quyền, trái lại, chỉ nhằm vào dân chúng. Tiêu biểu, là vụ đánh bom tại thành phố Katu, trên đảo Bali, Inđônexia ngày 12/10/2002 làm 202 người chết, 209 người bị thương, phần lớn là du khách; các vụ đặt bom trên xe điện, xe buýt, nhà ga như ở Madrid, thủ đô Tây Ban Nha, ngày 11/3/2004 khiến 109 người chết và 1500 người bị thương; tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh ngày 7/7/2005 giết hại 56 người, và làm bị thương 700 người khác; và gần đây nhất là tại Bombay, Ấn Độ, ngày 11/7/2006, khiến cho 200 người thiệt mạng và 714 người bị thương... Tin tức trên báo chí và đài truyền hình hàng ngày đều có đăng tải những vụ khủng bố, nhiều nhất là tại Iraq hiện nay.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại có khủng bố ? Để có câu trả lời, trước hết phải coi lại định nghĩa của khủng bố là gì. Theo sách vở thì khủng bố là sự thực hiện bởi một nhóm người những hành động bạo lực, bạo lực chiến tranh, nhưng lại không nằm trong khuôn khổ của một cuộc chiến tranh, nhằm tạo ra trong quần chúng nhân dân sự sợ hãi để đạt tới mục đích. Mục đích của khủng bố là áp đặt ý muốn của mình, không theo phương thức chính trị hay quân sự cổ điển. Chính vì mục đích của quân khủng bố là đạt cho bằng được kết quả họ mong muốn mà họ đã sử dụng khủng bố một cách mù quáng, bất chấp hậu quả, bất chấp lương tâm. Chính vì sự mù quáng đó và hậu quả giết người hàng loạt mà nạn khủng bố đã trở thành một tai họa đối với nhân loại. Các cơ quan an ninh từ cấp quốc gia đến quốc tế đang tích cực chống nạn khủng bố. Họ lên án khủng bố, họ đưa ra những biện pháp an ninh đề phòng khủng bố, họ truy lùng các tổ chức khủng bố, họ bắt giữ kẻ khủng bố... Thế giới đang liên kết với nhau trong cuộc chiến tranh chống nạn khủng bố.

Nhưng thực ra, khủng bố hiểu theo định nghĩa trên đây chỉ mới xuất hiện trong thế kỷ 20. Vì thế, nó không phải là định nghĩa duy nhất của hai chữ khủng bố. Và khủng bố cũng không phải chỉ là phương thức hành động của một nhóm người thiểu số yếu kém về thế và lực muốn bắt tuyệt đại đa số nhân loại phải tuân theo. Khủng bố còn có định nghĩa thứ nhì của nó. Từ nhiều thế kỷ nay, người ta định nghĩa khủng bố là một "phương pháp cai trị" dựa trên sự sợ hãi để bắt buộc những thành viên trong một tập thể phải thần phục. Khủng bố là một trong những phương tiện chính yếu để thể hiện uy quyền. Vì thế, dù là khủng bố do chính quyền chủ trương hay do đối lập tiến hành thì cũng là hai mặt của cái mà người ta gọi là khủng bố quốc gia.

Lịch sử đã cho chúng ta thấy cộng sản, và đặc biệt là CSVN, gắn liền với khủng bố. Nói cách khác, họ đã triệt để khai thác phương pháp cai trị này để khống chế toàn xã hội ta. Trong chiến tranh, lúc thế lực yếu kém, họ áp dụng lối đánh du kích, tức là đánh lén, đánh rồi chạy. Chiến tranh du kích và chiến tranh khủng bố là 2 anh em song sinh. Là người Việt Nam, ai mà có thể quên được những trận pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư giết hại vô số đồng bào vô tội ? Ai có thể quên được những vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế ? Ai có thể quên được Đại Lộ Kinh Hoàng trong Mùa Hè Đỏ Lửa ? ... Trước đó, còn những vụ thủ tiêu, bắt cóc, ám sát những người không theo cộng sản. Rồi còn vụ "cải cách ruộng đất" đẫm máu tại miền Bắc... Chính vì cai trị bằng khủng bố mà CSVN đã tạo ra một hình ảnh ghê sợ khiến cả triệu người đã bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam năm 1954, hàng triệu người khác bỏ chạy về vùng quốc gia mỗi khi quân cộng sản tiến đến.

Sau hòa bình, từ năm 1975 đến nay CSVN vẫn tiếp tục chính sách khủng bố, bài bản của những tên bạo chúa như Staline, Mao Trạch Đông vv... Hàng triệu người đã phải liều chết trên biển cả, bỏ nước ra đi tìm tự do, an lành nơi đất khách quê người. Hàng trăm ngàn người đã bỏ xác dưới lòng đại dương.
Tổng kết lại, thì khủng bố do CSVN tiến hành đã giết hại gấp ngàn lần những vụ khủng bố của các thành phần Hồi Giáo quá khích hiện nay.

Hiện nay, những vụ bắt bớ, sách nhiễu đối với những người đấu tranh cho dân chủ ở trong nước, những biện pháp cô lập, bức hại những nhà lãnh đạo các tôn giáo là những hình thức khủng bố không hơn, không kém. Tập đoàn lãnh đạo CSVN đang huy động các lực lượng khủng bố cơ hữu của họ là công an và an ninh chính trị để gây lo sợ trong nhân dân ta. CSVN khoe khoang với thế giới là họ có ổn định chính trị để câu mời du khách. Thực tế sự ổn định này đến từ lòng khiếp sợ bạo lực khủng bố của chính quyền. Người dân theo chế độ vì sợ chứ không vì thương.

Thế giới đã tuyên chiến với quân khủng bố quân sự. Thế giới cần lên án và cô lập những chế độ dùng khủng bố để cai trị như CSVN. Thế giới không thể giao thiệp, hợp tác với những kẻ dùng cường quyền đe dọa dân chúng của mình. Phải loại bỏ mọi hình thức khủng bố, mọi kẻ chủ trương khủng bố ra khỏi xã hội loài người văn minh của thế kỷ 21.

Con Đường Ngắn Nhất (CT28)


Lê Thanh

"Chúng ta không chỉ bảo vệ quyền lợi cho một nhóm người mà phản lại lợi ích của dân tộc và của chính mình, đó là dân chủ, tự do, hạnh phúc trong ấm no."

Ông Trần Quốc Tuấn, một sỹ quan an ninh C500, vừa công khai kêu gọi như vậy trong bức thư đề ngày 17 tháng 8, 2006, đang lan tràn cả trong và ngoài nước. Ông tha thiết kêu gọi các đồng chí, đồng nghiệp:

"Chúng ta hãy tỉnh táo lựa chọn cho tương lai của dân tộc và tương lai con em chúng ta. Hiện nay mở đầu cho cuộc đấu tranh chúng tôi kêu gọi các CHIẾN SĨ AN NINH QUÂN ĐỘI, AN NINH MẠNG, AN NINH ĐIỀU TRA, AN NINH BẢO VỆ NỘI BỘ, ĐẶC TÌNH, CẢNH SÁT HÌNH SỰ, và TRẬT TỰ đang hoạt động theo sự chỉ đạo của đảng Cộng Sản toàn quyền, hãy suy tư và nhận rõ hành vi của mình đang làm là phi lý, hình sự hóa hoạt động đấu tranh chính trị của những người tự do dân chủ.

Đừng cài bẫy, vu khống cho những người dân trong tay không một tấc sắt, không có người bảo vệ. Họ chỉ đòi quyền lợi giản đơn cho con người."

Hiển nhiên có vô số người vui mừng và cũng rất nhiều kẻ hốt hoảng khi bức thư này công khai xuất hiện. Vì duyệt lại các biến cố tại Liên Xô và Đông Âu, người ta đều thấy phương cách nhanh nhất để chấm dứt một chế độ độc tài là con đường được mở cổng bởi chính các cán bộ, đảng viên, nhân viên trong guồng máy cai trị. Vào những ngày tháng cuối cùng của nhiều chế độ tại Đông Âu, chỉ cần sự bất hợp tác thụ động của các công nhân viên Nhà Nước, như đồng loạt xin nghỉ bệnh, cũng đã đủ để làm tê liệt guồng máy cai trị. Hơn thế nữa, chính nhờ sự ngấm ngầm bất tuân các mệnh lệnh, đặc biệt là những lệnh đàn áp dân chúng, trong giới công an - cảnh sát mà các lực lượng quần chúng đấu tranh, các lực lượng dân chủ đầu tàu có thể tập trung vào việc đối đầu với chế độ độc tài hiện tại, và có đủ thời gian phát triển rộng khắp để không cho phép một chế độ độc tài mới nổi lên.

Điều cần nhận dạng là sự khác biệt giữa những cán bộ vạch trần những sai trái của chế độ vì mục tiêu thực sự muốn chấm dứt cảnh khổ của dân, và những kẻ chỉ mượn tiếng "vì dân" và ngay cả mượn lời của lực lượng dân chủ để tấn công các phe nhóm khác trong nội bộ nhằm tranh giành quyền và lợi. Hiện tượng này thực chất chỉ thay thế loại độc tài này bằng thứ độc tài khác chứ chẳng đem lại ích lợi gì cho dân tộc. Một tiêu chuẩn để phân biệt hai hình thức phản đối này là: những đòi hỏi thay đổi đằng sau các phản đối đó sẽ chuyển quyền lực từ tay chế độ vào tay nhân dân, hay chỉ chuyển quyền hành từ phe này qua nhóm khác thuộc cùng thành phần đang nắm quyền; Thí dụ như những chỉ trích cách đưa tin sai trái của một tờ báo Đảng để dẫn đến những kêu gọi phải cho phép tự do báo chí tư nhân, hay chỉ để thay thế cán bộ chủ nhiệm tờ báo này bằng một cán bộ thuộc phe nhóm mình.

Cũng vậy, dân tộc đang cần những tiếng nói lương tâm và những hành động thật giữa lòng guồng máy cai trị chứ không cần những khuôn mặt thương cảm đi kèm với lời khuyên bảo nhẫn nhục chịu đựng. Chẳng hạn như lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng CSVN, nhân ngày rằm tháng 7 vừa qua. Bên cạnh những chia xẻ về ý nghĩa cao sâu của Phật Giáo trong lòng dân tộc, ông tha thiết kêu gọi cả phật tử lẫn tăng ni hãy "mở rộng lòng từ bi hỉ xả, bỏ qua những định kiến trong quá khứ, chung lòng đoàn kết cùng nhau phụng sự chúng sinh và Tổ Quốc". Trong lúc đó, ông Võ Văn Kiệt biết rất rõ Nhà Nước CSVN đang tiếp tục giam cầm nhiều vị lãnh đạo Phật Giáo tại các chùa, cấm đoán mọi di chuyển, liên lạc, và hạn chế ngặt nghèo mọi mặt sinh hoạt của giáo hội. Trước những hành động ngay ở hiện tại, chứ không phải thuộc quá khứ đó, ông Kiệt không một lời phê phán hay ngay cả kêu gọi ngừng tay. Và như thế hoá ra ông chỉ thiết tha kêu gọi các nạn nhân hãy tiếp tục chịu các đòn mà chế độ đang và sẽ đánh lên họ ...... một cách vui vẻ chăng ?

Hơn thế nữa, nếu ông Võ Văn Kiệt thực lòng muốn từng bước giải trừ những oan nghiệp trên đất nước, có lẽ điều đầu tiên ông có thể làm là thẳng thắn phê phán sự sai lầm và các oán hờn vẫn đang tiếp tục sản sinh từng ngày từ bản Nghị Định 31/CP Quản Lý Hành Chánh mà ông đã đặt bút ký. Đây là việc làm có ý nghĩa đầu tiên mà nhiều người Việt Nam trông chờ ở ông từ lâu.

Nếu nhìn kỹ, bên cạnh hàng ngàn người CS còn đang nguyền rủa ông Gorbachev về tội để sụp đổ chế độ độc tài toàn trị Liên Xô, người ta sẽ thấy gần một tỷ người trải khắp Âu Châu biết ơn ông như một vị cứu tinh. Lịch sử nước Nga và lịch sử thế giới càng lúc càng nhận rõ vai trò và kính trọng sự can đảm của ông trong khúc quanh hệ trọng của đất nước Nga và cả nhân loại.

Liệu sẽ có những Gorbachev da vàng trên đất nước Việt Nam hay không ?

“Đồng Lòng và Đồng Loạt” – Bí Quyết Để Thành Công (CT28)


Tâm Minh

Cách đây nhiều thế kỷ, một tàu buôn nọ gồm một ông chủ và một bầy nô lệ cùng đi buôn. Bị sóng bão làm đắm tàu, rất may cả đoàn người trên tàu đã bơi được vào một hòn đảo gần đó. Hòn đảo tuy hoang dã nhưng màu mỡ. Với sức người và qua thời gian, đoàn người ấy đã biến hòn đảo thành một vùng trù phú. Hòn đảo đã trở thành một vương quốc nho nhỏ. Nhưng ông chủ vẫn là ông chủ, và đám nô lệ vẫn là những nô lệ. Họ phải làm việc cật lực mỗi ngày và kết quả mọi công lao làm việc của họ đều phải đưa về cho ông chủ. Ông có toàn quyền chia cho ai bao nhiêu tùy ý. Ông chẳng làm gì cả, nhưng ông là chủ nhân của tất cả những của cải mà đám nô lệ làm ra được. Chỉ một mình ông mới có quyền sử dụng theo ý mình những của cải ấy. Ông sống một cuộc đời hết sức vương giả.


Nhưng càng già, ông càng trở nên tham lam, tàn bạo và càng bóc lột đám nô lệ hơn. Ông bắt họ làm việc nhiều hơn, đánh đập tàn nhẫn hơn hoặc giảm bớt phần ăn của bất kỳ ai vì lý do nào đó không tuân lệnh ông hoặc không làm việc được. Để giúp cai trị đám nô lệ này, ông cất nhắc một số nô lệ tỏ ra trung thành nhất lên làm cai. Những tên cai này được hưởng những ưu đãi về quyền lực và quyền lợi. Ai trong bọn cai nẩy sinh tư tưởng bất phục tùng mà ông biết được, lập tức ông “cúp” ngay một số hoặc tất cả những ân huệ mà ông vẫn thường ban cho chúng. Vì thế, đám cai này dù bất mãn hay biết ông sai rành rành vẫn cứ phải trung thành với ông. Ông bảo chúng đánh đập ai là chúng đánh ngay, bất chấp chúng thấy lệnh ấy phi lý hay thất đức đến đâu. Vì quyền lợi, chúng đành phải nhắm mắt theo lệnh ông. Dần dần tâm hồn chúng trở thành chai đá, lòng thương xót trước đau khổ của đồng loại tắt lịm trong lòng chúng. Vì thế, chúng sẵn sàng đối xử thật tàn bạo với những nô lệ dưới quyền khi họ không vâng lời ông chủ hoặc không vâng lời chúng. Nhiều tên còn tàn bạo hơn cả ông chủ của chúng.

Trong số các nô lệ có những kẻ biết suy nghĩ. Họ tự hỏi: sao ông chủ này lại có quyền trên mình đến như thế? Ông có phải là chủ sở hữu hòn đảo và tất cả những vật có trên đó không? Tại sao ông không làm gì cả mà lại được hưởng mọi thứ trên đầu trên cổ họ như vậy? Tại sao mọi của cải trên đảo đều do họ làm ra mà họ không có quyền gì trên đấy? Tại sao quyền ấy lại thuộc về ông? Quyền lực của ông đến từ đâu? – Suy nghĩ và tìm hiểu, anh nhận ra rằng hòn đảo này chẳng phải của ông ta, các cây cối, nhà cửa, và tất cả những vật dụng trên đảo đều do đám nô lệ làm ra hết. Sở dĩ ông ta có quyền sử dụng chúng mà đám nô lệ thì không, tại vì đám nô lệ đã dành hay nhường quyền ấy cho ông bằng cách chấp nhận phục tùng ông vô điều kiện. – Anh bắt đầu trao đổi tư tưởng và thắc mắc của anh với các đồng bạn nô lệ khác. Ai cũng nhận ra rằng ông chủ chẳng có công gì cả, nếu có thì cũng rất ít, và quyền lực của ông chính là do tất cả mọi nô lệ đều công nhận ông là chủ của mình theo truyền thống đã có trước khi họ và ông đến đảo này lập nghiệp. Truyền thống ấy cứ tiếp tục như thế hàng chục năm rồi, không ai dám nghĩ khác. Và quyền lực ấy tồn tại được là do mọi nô lệ đều sợ ông, cho rằng ông có quyền sai bảo họ. Nếu tất cả nô lệ đều không chịu phục tùng ông nữa, thì ông sẽ chẳng còn dựa vào đâu để có quyền sai bảo họ cả.

Nhiều nô lệ giác ngộ được điều ấy. Một số nô lệ vì thế đã tỏ ra ương bướng không chịu làm việc hay phục tùng ông nữa. Lập tức những chàng ương bướng này lãnh đủ những cú đấm trời giáng, những ngọn roi đau điếng từ những tên cai, tay sai của ông chủ; có những chàng bị bỏ đói đến chết. Sau màn khủng bố ấy, mọi nô lệ khác đều sợ hãi, nhiều chàng đã hoàn toàn từ bỏ ý định tỏ ra bất phục tùng… Thiếp theo là cả một thời gian dài mọi người đều phải miễn cưỡng chấp nhận thái độ phục tùng.

Từ đó, ông chủ lại càng trở nên hà khắc, và đối xử độc ác hơn nữa với những nô lệ nào tỏ ra dù chỉ một chút ý muốn bất phục tùng. Mọi người – trừ những tên cai được ông chủ ưu đãi – đều bất mãn, căm ghét ông, nhưng không ai dám nói ra. Do thế, không bao lâu, thắc mắc căn bản về quyền lực của ông chủ lại nảy sinh trong lòng nhiều nô lệ quá đau khổ. Có người nhận ra rằng sở dĩ những chàng ương bướng trước kia bị đòn, bị nhịn đói và chết đi là do sự ương bướng của họ chỉ mang tính cá nhân và không được sự ủng hộ của những nô lệ khác. Nếu tất cả mọi nô lệ đều đồng loạt bất phục tùng, không chịu nghe lệnh của ông nữa thì ông chủ sẽ chẳng làm gì được. Điều tối quan trọng để thành công ở đây không chỉ là đồng lòng mà còn là đồng loạt. Thế là anh ta rỉ tai đến tất cả mọi người lý lẽ ấy và tất cả mọi người đều đồng tình vì lý lẽ ấy khá dễ hiểu và rõ ràng.

Khi mọi nô lệ đều hiểu rõ căn nguyên sự thiệt thòi của mình, sự vô lý về thân phận nô lệ luôn bị bạc đãi của mình, và nắm vững bí quyết để thoát khỏi ách nô lệ đã quàng vào cổ họ mà họ đã, một cách nào đó, đồng lòng chấp nhận suốt bao năm qua… họ quyết làm một cuộc cách mạng. Họ cùng quyết định vào một ngày nào đó, tất cả mọi nô lệ đều đồng loạt tỏ ra bất phục tùng ông chủ và những tên cai tay sai của ông. Ông chủ và bọn cai ra bất kỳ lệnh gì cũng nhất định không làm, có bị đánh đập đau đớn cũng ráng cam chịu. Nếu có tên cai nào tỏ ra hung hãn đánh đập họ như mọi khi thì cả bọn nô lệ sẽ cùng nhào vào trói gô chúng lại. Chúng ít người làm sao cự nổi đám đông nếu đám đông biết đoàn kết lại?

Và ngày giờ quyết định đã đến. Tất cả mọi nô lệ đều đồng lòng và đồng loạt không vâng lời, không hợp tác. Một vài tên cai tỏ ra hung hãn với đám nô lệ khi thấy họ không vâng phục liền bị họ xúm lại đánh thê thảm. Đồng bọn còn lại thấy thế sợ khiếp vía, đã trở nên bất động, để mặc đám nô lệ muốn làm gì thì làm. Không ra lệnh được cho ai, mà cũng chẳng được ai vâng lời, thế là ông chủ tự nhiên mất hết quyền lực.

Từ đó, đám nô lệ không vâng lệnh ông chủ nữa, nên ông chủ đã trở nên một người bình thường như họ, chẳng còn dám sai bảo ai điều gì. Thế là cuộc “cách mạng” thành công. Đám nô lệ đã tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ mà họ đã cam chịu suốt bao năm. Giờ đây trên đầu họ không còn một ông chủ có quyền sai khiến và hành hạ họ nữa. Họ có quyền tự quyết định số phận và cuộc đời của họ.

Nếu những người nô lệ
– không ý thức được sự vô lý trong thân phận nô lệ của họ;
– không đoàn kết để cùng đồng lòng, đồng loạt bất phục tùng ông chủ độc tài độc ác;
– không thắng vượt được sợ hãi đã trở thành bản tính của họ…;
– không quyết tâm tự giải thoát chính mình
thì chỉ cần một nhúm người – ông chủ và bọn cai tay sai – cũng có thể bắt họ, dù đông đến cả trăm người, phải làm thân nô lệ suốt đời.

Câu chuyện trên cũng tương tự như câu chuyện của 83 triệu người dân Việt Nam ta hiện nay đang cam tâm chấp nhận thân phận nô lệ cho mấy chục người trong Bộ Chính Trị, cùng với bọn tay sai, đang đè nặng trên đầu trên cổ họ. Tôi nói điều này mà không sợ bị phản cảm bị cho là một kẻ phản động bán nước chỉ trích chính dân tộc mình. Vì chính tôi là một công dân Việt Nam đang chịu cảnh sống nô lệ. Bọn tay sai này – với đủ mọi cấp bậc, ban ngành, trong đủ mọi lãnh vực – vì những đặc quyền đặc lợi do Bộ Chính Trị ban phát, sẵn sàng đàn áp dân chúng thẳng tay và độc ác. Bọn này được Bộ Chính Trị ưu đãi đặc biệt, sẵn sàng dung túng những tội ác để chúng trung thành với mình. Nếu chúng không trung thành, Bộ Chính Trị có thể dựa trên những tội ác chúng đã phạm, mà Bộ luôn luôn nắm trong tay đầy đủ bằng chứng, để truy tố chúng trước pháp luật. Một khi đã lỡ “nhúng tay vào chàm”, thì lập tức chúng lâm vào tình trạng “há miệng mắc quai”, muốn đứng về phe dân chúng để lên tiếng phản kháng những sai trái của Bộ Chính Trị là chúng bị “kẹt” ngay. Hiện nay chẳng mấy ai trong bọn tay sai này chưa “nhúng tay vào chàm”, nên chúng cứ phải trung thành với chủ nhân của chúng và đành phải quay lưng lại với dân tộc, cho dù biết đó là tội ác, là hèn hạ.

Còn dân chúng, nói chung, ai nấy đều sợ hãi trước sự tàn bạo và độc ác của Bộ Chính Trị và bọn tay sai: chỉ cần một vài câu đe dọa, thấy một vài người ương bướng bị khủng bố là đa số dân chúng đành thúc thủ, sẵn sàng tuân thủ mọi mệnh lệnh dù hết sức phi lý, bất nhân, hoặc hết sức bất lợi cho mình. Bộ Chính Trị biết rõ tâm lý này của dân chúng và bọn tay sai, nên triệt để áp dụng định luật tâm lý “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một người là hàng vạn người sợ) để khống chế dân chúng và bọn tay sai bằng sợ hãi. Chính nỗi sợ hãi này khiến dân chúng cứ phải cúi đầu vâng phục, tạo nên quyền lực vững chắc cho Bộ Chính Trị. Do đó, bất kỳ ai còn sợ hãi và sẵn sàng tuân phục những mệnh lệnh phi lý và bất nhân của bộ này thì đều góp phần vào việc xây dựng quyền lực cho họ, giúp họ vững bền mãi.

Vấn đề là làm sao để mọi người dân đều đồng lòng và đồng loạt không sợ hãi, không tuân phục, không hợp tác nữa, thì quyền lực của Bộ Chính Trị cũng như của chế độ độc tài toàn trị hiện nay lập tức bị lung lay và sụp đổ. Vấn đề khó khăn nhất và cũng là bí quyết để thành công trong việc giải phóng dân tộc khỏi ách độc tài toàn trị hiện nay là làm sao để có được sự “đồng lòng và đồng loạt” ấy! Điều này đòi hỏi mọi người dân và cả những ai đang làm tay sai cho chế độ độc tài đều phải dám ương bướng một chút. Đã có những con người anh dũng tỏ ra ương bướng đối với chế độ, dám nói lên những sai trái của họ, bất chấp bị sách nhiễu, bắt bớ, tù đày. Nếu chúng ta không đồng lòng lên tiếng ủng hộ họ, họ sẽ phải chết dưới bàn tay sắt máu của chế độ, và một cách nào đó chúng ta đã trở thành những kẻ “im lặng đồng lõa” với tội ác của bọn chúng. Trong cuộc đấu tranh dành lại chủ quyền của dân tộc, sự liên đới và đoàn kết, cùng đồng lòng, đồng chí hướng… là yếu tố làm nên chiến thắng.

Dân Oan (CT28)


Lệ Trinh

Từ ít lâu nay, xuất hiện ở Việt Nam danh từ "dân oan" để nói đến những người dân đang khiếu kiện để đòi lại công bằng, công lý cho mình. Không phải chỉ có ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà Nội người ta mới gặp được dân oan. Ở khắp mọi nơi trên đất nước ta hiện nay, chỗ nào có cái gọi là "trụ sở tiếp công dân" đều thấy tụ tập hàng chục, hàng trăm dân oan. Họ ăn chực nằm chờ, năm này qua tháng kia, họ căng lều, căn bạt, người màn trời chiếu đất để nhất quyết đòi hỏi chính quyền giải quyết những nỗi oan khiên của họ. Dân oan đi khiếu kiện vì nghĩ rằng dưới chế độ CSVN, có thể có luật pháp. Dân nghĩ như vậy cũng có cơ sở vì CSVN tuyên bố xây dựng Nhà Nước pháp quyền, vì Quốc Hội đang sản xuất một rừng luật, vì CSVN đã mang pháp luật ra để dọa nạt dân, vì CSVN đã dùng pháp luật để "quy án, gán tội" cho dân dù có vi phạm hay không.

Nhưng, thật là tội nghiệp cho người dân thấp cổ bé miệng, bất lực trước cường quyền : Đi đòi công lý ở nơi không hề có công lý thì bao giờ đòi cho được ? Gần đây, theo báo CSVN, trong phiên họp lần thứ 14 của Ban Chỉ Đạo Cải Cách Tư Pháp Trung Ương, "Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết yêu cầu các cơ quan tư pháp phải nỗ lực hơn nữa để nâng cao chất lượng hoạt động, cụ thể hóa chương trình cải cách tư pháp, loại bỏ "căn bệnh trầm kha" là thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ tư pháp". Sự kiện này chứng tỏ, ở nước ta, từ trước đến nay, không có một nền tư pháp công minh để phán quyết những vấn đề tranh tụng trong xã hội.

Trong quá khứ, nhất là vào thập niên 50 và 60, hình ảnh ghê rợn của những "tòa án nhân dân" với chức năng duy nhất là xử tội chết cho những người bị gán tội địa chủ. Đây là những cuộc đấu tố man rợ được gọi trá hình là "tòa án nhân dân". Nơi đây, thẩm phán thường là bọn cán bộ cộng sản, chữ quốc ngữ còn chưa biết đọc biết viết, nói gì đến trình độ về luật pháp; bị cáo không có quyền biện hộ, không có luật sư; xét xử không dựa trên luật pháp... Một nền tư pháp mà trong mấy chục năm trường không có một trường Đại Học Luật để giảng dậy, đào tạo luật sư thẩm phán. Sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã đóng cửa trường Luật. Việc xét xử vẫn tiến hành như trong những năm đầu của chế độ. CSVN chỉ mới mở lại Khoa Luật từ sau "đổi mới", tức là từ non 20 năm nay. Trong khi đó, Nhà nước vẫn chưa có một hệ thống luật pháp đầy đủ trên giấy trắng mực đen. Tệ hại hơn nữa là luật viết một đàng, chính quyền áp dụng một nẻo gây ra tình trạng nhiều quyết định của chính quyền sai luật, đi ngược lại quy định của luật pháp. Nếu gọi tình trạng này là tình trạng luật rừng thì cũng không ngoa.

Điển hình, cứ đọc báo chí của đảng trong thời gian gần đây, sẽ thấy được tình trạng luật rừng này. Báo Người Lao Động, ngày 7/8/2006 đăng tin "20 năm vẫn chưa đòi được tiền thi hành án: Đội Thi hành án quận 5, TP HCM giữ của ông Trần Đăng Hưng 550.000 đồng từ năm 1986 đến nay chưa trả. Ông Hưng khiếu nại lên tòa án quận 5, nhận được câu trả lời, thẩm quyền giải quyết không phải của cơ quan này mà thuộc về Đội thi hành án quận 5. 20 năm qua, vụ việc vẫn chưa được giải quyết". Báo Lao Động ngày 22/12/2004 đưa tin "Thi hành án sai, dân phải chịu : Người dân tuân thủ các quy định của pháp luật thì mất nhà, bị thu hồi giấy tờ và chỉ biết gửi đơn khiếu nại đến các cấp các ngành, còn cơ quan nhà nước làm sai lại cố tình bắt dân phải chịu và đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên. Chuyện lạ này đang xảy ra tại Phòng Thi hành án tỉnh Bắc Giang". Tòa án Bắc Giang cũng là nơi hiện đang xảy ra vụ bắt các tu sĩ Phật Giáo, tra tấn dã man, nguỵ tạo nhân chứng, vật chứng để "quy án gán tội" ăn cắp tượng Phật cổ. Còn bao nhiêu trường hợp khác nữa, kể không hết... Tóm lại, từ các cơ quan gọi là Viện Kiểm Sát Nhân Dân đến các tòa án, đến những nhân sự trong ngành tư pháp của Việt Nam hiện nay đều mang tính chất biểu kiến với quốc tế, nhưng lại là nguồn gốc những vụ xử án oan sai, nhằm hành hạ, bóc lột lương dân vô tội.

Không phải ngẫu nhiên mà tự dưng ông chủ tịch nước mới ra lò Nguyễn Minh Triết đã chỉ thị phải "cải cách tư pháp" sau khi đưa ra nhận xét về ngành tư pháp là "yếu và thiếu". Chắc hẳn ông đã bị dân oan chặn xe đưa đơn khiếu kiện. Hai nhận xét của ông vừa đúng, vừa sai thực tế. Nếu ở từ cấp quận, huyện lên đến thị xã, thành phố, nơi nào cũng có tòa án, cũng có kiểm sát nhân dân thì đâu có thiếu. Nhân sự trong các cơ quan tư pháp vừa kể thì chưa trống chỗ đã có người chờ. Vậy nói thiếu như lời ông Triết thì không đúng. Còn nói tư pháp Việt Nam yếu cũng sai sự thật. Bạo lực của công an, của kiểm sát nhân dân, của cán bộ điều tra đâu có yếu ?

Có thể ông Triết muốn nói đến cái thiếu là thiếu những tòa án văn minh, trong sáng, xét xử công minh, thiếu những thẩm phán có trình độ và lương tâm xét xử. Thiếu hai thứ này thì thật đúng với thực tế. Có điều là không sao tìm được trong đảng CSVN những nhân sự như thế. Và toà án của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam vẫn tiếp tục là những gánh hát xử theo luật rừng. Dân oan ngày càng đông.

Trên Bảo Dưới Không (Nên) Nghe (CT28)

Cao Vũ

Trong việc thi hành luật pháp thường khi một vụ việc kéo dài, nghĩa là gặp nhiều rắc rối phức tạp, thì càng lúc vụ việc càng được chuyển lên cấp cao hơn chứ ít khi đi ngược xuống cấp thấp. Hơn thế nữa, khi chế độ càng muốn ra tay làm mạnh để hù dọa những người khác chính kiến, lại càng tăng cấp bộ trách nhiệm, chứ không giao ngược cho cấp thấp tại địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, người ta thấy hiện tượng về sự biến mất của các quan chức cấp cao cấp khi tiến vào khâu trực tiếp ức hiếp, đàn áp người dân. Việc đập phá nơi thờ phượng, đánh đấm các nhà dân chủ, và ngay cả giết hại đồng bào thiểu số Tây Nguyên đều được giao cho cán bộ phường, xã thực hiện, ít là trên giấy tờ.

Có nhiều giả thuyết để giải thích hiện tượng này. Có người cho rằng, trong thời buổi mở cửa buôn bán với thế giới hiện nay, các quan chức lớn sợ bị quốc tế chế nhạo vì chính họ biết những lệnh lạc của mình rất quái dị so với tiêu chuẩn hành xử của một chính phủ bình thường trên thế giới; và nếu các lệnh này vi phạm nhân quyền trầm trọng, những thành phố mà họ cai trị còn có thể bị khước từ các giao kèo kinh tế béo bở. Cũng có người cho rằng, việc đùn đẩy cho cấp dưới này chỉ vì các quan chức lớn sợ mất mặt với dân chúng và chính tập thể đảng viên của họ. Ai cũng biết lệnh lạc của Nhà Nước ngày nay chỉ để hù dọa, chứ chẳng còn mấy ai tuân theo. Vì dẫn đầu trong việc coi thường luật pháp trên cả nước chính là cán bộ có chức quyền, đảng viên cao cấp, và thân nhân của họ.

Tuy nhiên, nếu có dịp so sánh với cách hành xử của giai cấp cai trị thuộc các chế độ độc tài khác vào cuối giai đoạn cầm quyền của họ , người ta có thể thấy một lý do chính xác hơn. Tại các nơi này, từ Ðông Âu đến các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, trong những tháng ngày cuối cùng, những vụ trực tiếp áp bức người dân, từ đánh đập các nhà dân chủ đến giết người tập thể theo kiểu trừ khử chủng tộc, v.v... đều được đẩy cho cán bộ cấp thấp thực hiện. Khi nhóm lãnh đạo tại thượng tầng đều biết không thể cưỡng lại xu hướng dân chủ của nhân loại hôm nay, và ngày tàn của các chế độ độc tài còn lại trên thế giới chỉ còn là vấn đề thời gian, họ biết sẽ có ngày phải trả lời trước tòa án dân tộc và trước tòa án quốc tế về những hành động côn đồ, đẫm máu của ngày hôm nay. Cùng lúc đó họ vẫn muốn đè bẹp các lực lượng dân chủ hầu kéo dài những ngày tháng cai trị để cào vét càng nhiều càng tốt trước khi ra đi. Ðể đạt được cả 2 mục tiêu này, cách hay nhất, và có lẽ "duy nhất", là đẩy các hành động trực tiếp đàn áp dân chúng cho cấp dưới thi hành.

Dĩ nhiên, trong mọi chế độ độc tài, bao giờ cũng có những thành phần sẵn sàng lăn vào thi hành các mệnh lệnh để mong tiến lên "chiếu trên" tuy vẫn biết những tấm gương "dê tế thần" trước đây và sau này. Tuy vậy, đại đa số cán bộ cấp thấp đều bị giằng co giữa 2 nhu cầu, vừa phải giữ miếng cơm hiện tại cho bản thân và gia đình, vừa phải trả lời lương tâm và lo sợ về các hình phạt của dân tộc và nhân loại có ngày sẽ ập xuống. Tại các phiên xử tội phạm chống lại nhân loại trước tòa án quốc tế trong những năm qua, loại bào chữa "tôi chỉ thi hành theo lệnh trên" đã quá nhàm và không còn thuyết phục được ai. Ngày nay mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Và với thời đại tín học và Internet ngày nay, từng hành động áp bức của các nhân sự của chế độ đang được chuyển ra nước ngoài và ghi lại thành hồ sơ. Cộng đồng người Việt hải ngoại đang tiếp tay tích cực trong việc này và chuyển tiếp dữ kiện đến các cơ quan lưu trữ quốc tế về tội phạm chống lại loài người.

Trước tình cảnh đó, nếu là người có lương tâm hoặc không muốn bị chịu án chung với chế độ mai sau, những cán bộ cấp thấp phải làm gì ?

Thật khó để trả lời câu hỏi này, vì có quá nhiều trường hợp khác nhau. Tuy nhiên, thái độ và cách hành xử của công an, cảnh sát Serbia trong những tuần lễ cuối của chế độ độc tài Slobodan Milosevic có thể là những thí dụ cụ thể cho những ai cần biết. Vào những ngày sôi nổi tháng 9 năm 2000, khi được lệnh dàn xe cảnh sát ngang các ngã đường chính để chặn từng đoàn biểu tình từ các tỉnh kéo về thủ đô Belgrade, các đoàn công an và cảnh sát đã tuân lệnh và làm đúng như vậy. Nhưng khi đoàn xe của dân chúng lũ lượt kéo đến, công an tại các nút chặn ôn tồn thương lượng với đại diện đoàn biểu tình và đồng ý khoanh tay đứng nhìn để dân chúng đẩy xe công an vào lề đường. Tại tòa nhà quốc hội cũng vậy. Khi được lệnh, cảnh sát Serbia nhanh chóng dàn hàng bao quanh tòa nhà này. Nhưng khi dân chúng kéo đến, họ tiếp tục đứng yên bất động. Dân chúng lập tức hiểu ý, đi xuyên qua hàng rào cảnh sát tiến vào quốc hội đòi Milosevic phải tôn trọng kết quả bầu cử. Thế là cảnh sát không đụng đến dân và dân không đụng đến cảnh sát.

Một cách tổng quát, cán bộ cấp thấp tại một số chế độ độc tài đã chọn cách hành xử rất khôn khéo, đó là tuân hành những mệnh lệnh có tính hình thức và hù dọa, nhưng không thực sự nhúng tay vào những vụ đàn áp quần chúng và tuyệt đối không đụng đến tính mạng người dân. Nếu cấp trên chỉ thị những hành động tàn bạo, hãy để họ tự làm lấy, đặc biệt là những kẻ hưởng lợi nhiều nhất hiện nay và có phương tiện lẩn tránh ngày mai đang ngồi ngất ngưỡng ở thượng tầng.

Như dân chúng tại các chế độ độc tài vừa sụp đổ, người dân Việt Nam sẽ nhớ rất rõ những ai đàn áp họ nhưng cũng rất tinh tế nhận ra những ai cố tránh không áp bức họ theo lệnh trên. Nếu không có tài sản tích lũy và phương tiện để chạy ra nước ngoài như những kẻ cai trị ở thượng tầng, các cán bộ cấp thấp vẫn có thể chọn tương lai cho mình bằng các hành xử đúng đắn trong những ngày trước mặt.

Vừa Trát Phấn ... Vừa Bôi Nhọ (CT28)


Vũ Thạch

Đến giờ này thì có lẽ ai cũng biết việc đảng và nhà nước CSVN thả tù bác sĩ Phạm Hồng Sơn hoàn toàn là bước nhượng bộ trước áp lực ngoại quốc. Mục tiêu chính là để tô điểm lại bộ mặt chế độ trong một thời gian ngắn trước khi được thông qua qui chế Mậu Dịch Bình Thường Vĩnh Viễn với Hoa Kỳ và trở thành hội viên chính thức với Tổ Chức Mậu Dịch Quốc Tế. Nhưng ngược lại, chính đợt đàn áp mới của công an nhắm vào các nhà dân chủ khác, trước và sau ngày thả tù bác sĩ Phạm Hồng Sơn và quanh ngày 2 tháng 9 vừa qua, cũng chứng minh rất rõ đảng và nhà nước CSVN chẳng có chút thiện chí nào trong việc cải thiện tình trạng nhân quyền tại Việt Nam mà nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế liên tục kêu gọi.

Thật vậy, trên hầu hết các tường thuật của báo chí ngoại quốc lẫn Việt ngữ tại hải ngoại về trường hợp bác sĩ Phạm Hồng Sơn, họ đều cùng lúc nhắc đến:

• Việc chế độ ngưng giam bác sĩ Phạm Hồng Sơn trong tù chỉ để tiếp tục giam ông tại nhà, qua cái gọi là "địa phương quản lý";
• Việc chế độ cố tình giữ bác sĩ Phạm Hồng Sơn lại thêm vài ngày chỉ để ông không thể đưa tang bố của mình;
• Việc chế độ tiếp tục giam giữ vô lý và phi pháp ký giả Nguyễn Vũ Bình và nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo, nhân quyền khác;
• Nhưng quan trọng hơn hết là việc chế độ tung ra cả một chiến dịch tấn công đồng loạt nhiều nhà dân chủ trong những tuần lễ dẫn đến thời điểm 2 tháng 9: từ việc hành hung ông Vũ Hoàng Hải đến độ phải đi nhà thương; việc sách nhiễu ông Đỗ Nam Hải, buộc đóng tiền phạt mà không chứng minh nổi điều luật nào đã vi phạm; việc bắt đi biệt tăm ông Nguyễn Ngọc Quang trên đường ra thăm mộ phần thân phụ; việc tiếp tục giam cầm ông Trương Quốc Huy đã 2 tuần không công bố tội danh; việc xét nhà và áp lực đuổi nhà ông Bạch Ngọc Dương bằng cách hăm dọa người cho thuê; việc hăm dọa luật sư Nguyễn Văn Đài không được đi đón bác sĩ Phạm Hồng Sơn;
• Và bao vây, theo dõi, hăm dọa hầu hết các nhà dân chủ khác hoàn toàn theo tác phong mà báo chí thế giới chỉ thấy ở những tập đoàn mafia chuyên nghiệp.

Kết quả là trong mắt công luận quốc tế lẫn người Việt trong và ngoài nước, hình ảnh chế độ không những không cải thiện mà nét côn đồ mafia lại càng hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể hơn qua từng con người thật, bàn tay thật của những cán bộ công an hiểm độc có tên tuổi hẳn hoi, như những Bạch Hưng Tân, Đặng Hồng Đức, Nguyễn Văn Bình, Doãn Anh Thủy, v.v....

Câu hỏi được đặt ra là tại sao những người lãnh đạo chế độ CSVN lại có thái độ vừa trát phấn vừa bôi nhọ lên mặt mình như thế ?

Có người cho rằng đây chỉ là quán tính của cái thời "chính nghĩa trên nòng súng", và cứ bảo cấp dưới lẳng lặng đàn áp bằng lệnh miệng thì thế giới chẳng thể nào biết được mà can thiệp. Nếu còn bộ óc nào vẫn mang loại suy nghĩ này, hẳn họ sẽ ngạc nhiên lắm khi có ngày chịu mở mắt ra đọc vài mẫu tin trên các mạng Internet. Và có lẽ sẽ còn kinh ngạc hơn nữa khi hình ảnh và hồ sơ tội ác của họ và của từng hung thần hiện nay của chế độ xuất hiện trên những trang điện tử khắp nơi trên thế giới.

Cũng có người cho rằng nguyên nhân của hiện tượng chế độ vừa ráng bôi son vừa tự trát trấu là tình trạng kình chống nhau ngày càng vô phương cứu chữa giữa các phe cánh tại thượng tầng lãnh đạo đảng, không chỉ trong số những người chính thức ngồi tại Tổng Bộ Chính Trị Đảng CSVN mà còn từ những bàn tay đầy quyền lực với ra từ bóng tối hậu trường. Không phe cánh nào muốn đối thủ của mình thành công để rồi có thêm quyền lực trong Đảng.

Và sau hết, có người cho rằng chính từ tình trạng giằng co vô hạn đó ở thượng tầng mà hệ thống công an, vốn theo truyền thống nắm rất nhiều quyền lực trong chế độ, không những đang từng bước xa dần bàn tay kiểm soát của đảng CSVN, tự quyết định kế hoạch hành động riêng cho mục tiêu quyền và lợi của riêng họ, mà còn len lấn xa và sâu hơn vào hệ thống điều hành cả quốc gia. Kết quả bầu cử Trung Ương Đảng CSVN tại Đại Hội 10 là một bằng chứng khá rõ.

Nhưng dù nguyên nhân đến từ đâu thì việc đẩy được chế độ vào cách hành xử hiện tại vẫn là một thành quả rất lớn của lực lượng dân chủ VN, với sự lấn tới tiên tục và phối hợp hiệu quả từ trong nước ra đến hải ngoại. Nếu nhìn từ góc độ cá nhân, một số nhà dân chủ đã phải chịu một số thiệt thòi trong những tuần qua. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn cảnh, rõ ràng các nhà dân chủ Việt Nam đã thành công, dù với tay không, vẫn ép buộc được chế độ vào vị trí thất bại, không dấu được bộ mặt thật của họ trước thế giới qua màn kịch "thả tù nhân ngày 2 tháng 9".




Tự do là người dân phải đuợc sống ở đâu mà mình muốn. Tự do là người dân phải được tự do lựa chọn món hàng mà mình bỏ tiền ra mua ; Tự do là người dân phải được tự do kiếm nghề sinh sống phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mình ; Tự do là người dân phải được tự do nói lên những điều mình cho là đúng, … thì cái xã hội, chế độ mà những người cộng sản Việt Nam dựng lên ở miền Bắc Việt Nam sau 1954 hoàn toàn không đáp ứng được các ý niệm tự do sơ khai đó. Hơn nữa, bất kỳ ai có ý tưởng hay hành vi không ủng hộ hoặc chống đối lại chính sách của Nhà nước đều bị cho là phần tử nguy hiểm và dễ dàng bị đưa đi tập trung cải tạo (cầm tù) vô thời hạn. Những khát khao, kỳ vọng của đông đảo quần chúng khi ủng hộ, hy sinh cứu quốc, đoàn kết, tự do, độc lập, hành phúc của những người cộng sản đã được đáp lại bằng một cuộc sống kìm hãm như thế. Với những gì mà những người cộng sản đem lại cho người dân so với những hô hào, kêu gọi, cam kết của họ thì chỉ có một từ duy nhất diến tả được, đó là : Sự lừa dối! … Lịch sử lại một lần nữa cho thấy thói cường quyền, độc tài luôn kèm theo căn bệnh ngụy biện, lừa mỵ, đạo đức giả.... Và trong lịch sử nhân loại, có lẽ cũng chỉ thấy một hiện tượng hy hữu xảy ra ở Việt Nam... quyền lãnh đạo đất nước và quản trị quốc gia vẫn bị người cộng sản độc chiếm và như một vòng xoắn bệnh lý, sự dối lừa vẫn tiếp diễn. Sự dối lừa đã tiếp diễn suốt 61 năm qua.... Phạm Hồng Sơn